Đưa Tiền Giang thành tỉnh phát triển mạnh trong vùng ĐB SCL

10:31:33 | 17/5/2016

Là tỉnh vừa thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vừa thuộc vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, có mối liên kết với Tp. Hồ Chí Minh, tỉnh Tiền Giang sở hữu lợi thế về vị trí địa lý với hệ thống giao thông thủy, bộ thuận lợi; có điều kiện phát triển nền nông nghiệp toàn diện, công nghệ cao; có điều kiện mở rộng khu công nghiệp, khu đô thị mới; có lợi thế về du lịch sinh thái; có lực lượng lao động dồi dào… Theo ghi nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang – ông Lê Văn Hưởng: "Những lợi thế trên cộng hưởng cùng thành quả và bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, điều hành của các nhiệm kỳ trước chính là tiền đề quan trọng để Đảng bộ tỉnh nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX đạt được những kết quả quan trọng". Cường Nguyễn thực hiện.

Xin ông chia sẻ cụ thể hơn về những thành tựu mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Tiền Giang đã đạt được trong 5 năm qua?

Triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2010 - 2015, phần lớn các chỉ tiêu đều được Tiền Giang thực hiện đạt và vượt so với Nghị quyết đề ra. Cụ thể, quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, tăng trưởng kinh tế theo giá so sánh 1994 bình quân 5 năm đạt 11%/năm (theo giá so sánh 2010 tăng bình quân 7,5%/năm, đứng thứ 2/13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long). Nhiều nhóm giải pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của tỉnh như: tổ chức lại sản xuất có hiệu quả và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, tăng cường huy động vốn đầu tư, đa dạng và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển… Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 tăng gấp 2,2 lần so năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu của Tiền Giang đã vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2013; đến năm 2015 đạt 1,76 tỷ USD, tăng gấp 3,1 lần so với năm 2010. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội thường xuyên được quan tâm đầu tư; từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển  kinh tế-xã hội của tỉnh; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả thiết thực, số xã được công nhận xã đạt chuẩn Nông thôn mới trong 5 năm 2011-2015 là 12 xã (mục tiêu là 10 xã). Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, khoa học - công nghệ, văn hóa - thể thao có chuyển biến tích cực; an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo đạt 3,8%; số lao động được tạo việc làm hàng năm đạt 24.000 lao động,...

Trong 5 năm qua, vấn đề huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh đã đạt được kết quả như thế nào, thưa ông?

Để thu hút nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển, ngay từ đầu năm Kế hoạch 5 năm, tỉnh đã tập trung chỉ đạo cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính; nâng cao hiệu quả công tác đền bù giải phóng mặt bằng; chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng; tăng cường công tác xúc tiến đầu tư,… nên tình hình thu hút đầu tư phát triển của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong 5 năm 2011-2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 96.100 tỷ đồng, chiếm khoảng 37% so GRDP. Về đầu tư công (kể cả vốn trái phiếu Chính phủ), đã đưa vào triển khai thực hiện trong giai đoạn 2011-2015 là 10.904 tỷ đồng, tăng gấp 1,73 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, chiếm 11,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Về thu hút vốn đầu tư, trong 5 năm 2011-2015, tỉnh đã thu hút khoảng 96 dự án đầu tư trong nước mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 32.000 tỷ đồng và 48 dự án FDI mới với tổng vốn đăng ký 1.041 triệu USD (tăng gấp đôi so cùng kỳ 5 năm trước). Đồng thời có 32 dự án FDI đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng 302,1 triệu USD, nâng tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm giai đoạn 2011-2015 đạt 1,07 tỷ USD; vốn thực hiện đạt 883,1 triệu USD.


Tính đến cuối năm 2015, trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 92 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 1.652 triệu USD. Quy mô vốn FDI thu hút được của tỉnh Tiền Giang đứng hạng thứ 29/63 so với các tỉnh, thành cả nước và đứng thứ 3/13 so với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các nguồn vốn đầu tư đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu và nhiệm vụ phát triển  kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh trong nhiệm kỳ vừa qua.

Ông có thể phân tích sâu hơn về tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh cũng như hướng đầu tư khai thác hiệu quả thế mạnh này trong thời gian tới?

Tiền Giang có bờ biển chạy dài khoảng 32 km và hệ thống các sông Tiền, sông Vàm Cỏ Tây, sông Soài Rạp, kênh Chợ Gạo... nối liền với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long với Tp. Hồ Chí Minh; đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông của các tỉnh ven sông Tiền và Campuchia. Những năm qua, tỉnh đã chú trọng phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản gắn với phát triển các dịch vụ hậu cần nghề cá, công nghệ chế biến xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và đảm bảo an sinh xã hội; đồng thời tạo động lực phát triển cho các địa phương trong tỉnh, góp phần nâng cao thế và lực cho kinh tế của Tiền Giang trong thời gian qua.

Song song đó, tỉnh đã triển khai nhiều chính sách thích hợp hỗ trợ phát triển ngành nghề đánh bắt trên biển, đặc biệt là các nghề khai thác khơi xa vừa nâng cao thu nhập cho ngư dân vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo; kiện toàn cơ sở hạ tầng vùng nuôi thủy sản, gắn nuôi trồng với phát triển du lịch sinh thái biển... Trong đó, quan tâm chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng, khuyến khích nông dân nuôi theo an toàn sinh học, đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản, xây dựng những mô hình nuôi phù hợp, tổ chức sắp xếp lại nghề cá, hình thành những tổ liên kết đánh bắt để hỗ trợ nhau trên biển...

Để tiếp tục khai thác tốt tiềm năng và thế mạnh kinh tế biển Tiền Giang, trên tinh thần Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 của Trung ương; Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình hành động và triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, định hướng phát triển kinh tế biển và ven biển của tỉnh đã được thể hiện trong kế hoạch phát triển  kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 với mục tiêu: "Tiếp tục khẳng định vùng biển và vùng ven biển là một địa bàn chiến lược, có tiềm năng kinh tế to lớn, có vị trí quốc phòng vô cùng quan trọng đối với phát triển  kinh tế-xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng của tỉnh Tiền Giang; trong đó phát triển thủy sản, du lịch và cảng biển là ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực mạnh mẽ cho sự chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế của tỉnh. Xây dựng thành một vùng kinh tế phát triển năng động, thu hút các nguồn đầu tư trong tỉnh, trong nước và nước ngoài; quy hoạch và mời gọi đầu tư phát triển công nghiệp, thương mại dịch vụ vùng công nghiệp phía Đông của tỉnh. Phát triển các ngành kinh tế biển và ven biển, phát triển du lịch và phát triển thủy hải sản đảm bảo đạt yêu cầu, hiệu quả cao và bền vững; gắn với bảo vệ an ninh - quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 xây dựng Tiền Giang trở thành một trong những tỉnh phát triển kinh tế-xã hội mạnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là một cực phát triển của vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, là một đầu mối phát triển dịch vụ vận tải, du lịch của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Để hoàn thành mục tiêu đề ra, tỉnh tập trung vào những đột phá chiến lược nào?

Mục tiêu 5 năm tới (2016-2020), tỉnh tập trung huy động mọi nguồn lực nhằm khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ; cải thiện hơn nữa môi trường thu hút đầu tư - kinh doanh; phát triển các ngành, lĩnh vực gắn với tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của các ngành, các thành phần kinh tế... Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 8,5-9,5%/năm; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt khoảng 66,3-69,3 triệu đồng; kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt khoảng 3,4 tỷ USD, tăng bình quân 13,3%/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 170.000 -188.000 tỷ đồng, chiếm 36,4-39,5%/GRDP...

Để hoàn thành mục tiêu đề ra, tỉnh tập trung vào những vào 5 đột phá chiến lược. Thứ nhất, hình thành các cực tăng trưởng, vùng trọng điểm kinh tế. Thứ hai, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng  kinh tế-xã hội đồng bộ, hiện đại ở cả đô thị và nông thôn. Thứ ba, tập trung đầu tư, hình thành hệ thống các sản phẩm chủ lực trong những ngành và lĩnh vực có lợi thế so sánh. Thứ tư, đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa, phát triển các đô thị trung tâm, đô thị ngoại vi và các điểm dân cư nông thôn. Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững  kinh tế-xã hội của tỉnh.