“Thẳng thắn đánh giá thì môi trường kinh doanh của Việt Nam dù đã có những thay đổi khá tốt trong thời gian qua nhưng so với các quốc gia khác, trước hết trong khu vực ASEAN thì vẫn còn khoảng cách khá lớn. So với mong muốn của doanh nghiệp thì lại càng xa”.
Đây là chia sẻ của Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc, Đồng chủ tịch VBF tại Diễn đàn doanh nghiệp VN thường niên 2016 – VBF 2016 với chủ đề “Nâng cao vai trò khu vực kinh tế tư nhân - Tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vì sự phát triển hài hoà của nền kinh tế Việt Nam”.
Nhiều cam kết cải thiện được thực hiện
Theo ông Lộc, năm 2016 vừa qua là năm đầu tiên của Chính phủ mới, dù thời gian chưa được một năm nhưng cộng đồng kinh doanh thấy rõ những định hướng, cam kết trong phát triển kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh của Chính phủ.
Ông Lộc cho biết, hàng loạt giải pháp cụ thể đã được Chính phủ thực hiện như trình Quốc hội sửa đổi nhiều luật liên quan đến đầu tư và kinh doanh như Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật sửa đổi các luật liên quan đến đầu tư kinh doanh tập trung vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đặc biệt, Chính phủ trong thời gian vừa rồi đã đảm bảo được những quy định đổi mới của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2014 được thực hiện nghiêm túc, hàng nghìn điều kiện kinh doanh đang được quy định tại thông tư phải bãi bỏ, tiến hành rà soát nghiêm túc các điều kiện kinh doanh và ban hành gần 50 nghị định thay thế. Một khối lượng lớn công việc rất lớn đã được thực hiện trong thời gian rất ngắn, đảm bảo được mốc thời gian 1/7/2016 là các điều kiện kinh doanh tại thông tư phải bãi bỏ như luật quy định, nhưng cũng đảm bảo chất lượng các điều kiện kinh doanh này.
Tháng 3/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19 năm 2016, nghị quyết 19 thứ 3 về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tháng 5/2016, Chính phủ lại tiếp tục ban hành Nghị quyết 35 về phát triển doanh nghiệp với mục tiêu và tầm nhìn cả nhiệm kỳ. Các nghị quyết này đều có mục tiêu cụ thể về các lĩnh vực cần thay đổi, so sánh được với các quốc gia khác trong khu vực và có lộ trình thực hiện chi tiết.
Theo ông Lộc, dù thời gian chưa dài nhưng đã tạo ra những hiệu ứng tích cực. Năm 2016 này khả năng là năm đầu tiên mà số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt mốc kỷ lục, vượt con số 100 ngàn doanh nghiệp mới thành lập. Mới đây, Ngân hàng Thế giới cũng đã công bố chỉ số Môi trường kinh doanh trong đó Việt Nam tăng đến 9 bậc, vào nhóm 5 quốc gia đứng đầu ASEAN. Đây là những minh chứng rõ rất thể hiện những kết quả ban đầu của quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển doanh nghiệp này.
Rút ngắn khoảng cách giữa chính sách và thực tế
Tuy nhiên, theo ông Lộc, môi trường kinh doanh của Việt Nam dù đã có những thay đổi khá tốt trong thời gian qua nhưng so với các quốc gia khác, trước hết trong khu vực ASEAN thì vẫn còn khoảng cách khá lớn. So với mong muốn của doanh nghiệp thì lại càng xa. Các doanh nghiệp vẫn đang gặp hàng loạt khó khăn trong hoạt động của mình từ vay vốn khó khăn và lãi suất cao so với các nước, thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và trình độ phù hợp, chất lượng hạ tầng kém cho đến các vướng mắc và khó khăn về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, thuế, hải quan hay xuất nhập khẩu… Khác với nhiều nước, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải nặng gánh các khoản chi trả không chính thức, gặp phải tình trạng nhũng nhiễu cho đến luôn phải tìm cách đối phó với những rủi ro có thể xảy ra từ thay đổi chính sách hay sự áp dụng và thực hiện không nhất quán, không dự đoán được của cơ quan nhà nước các cấp….
Khác với doanh nghiệp nhiều nước được kinh doanh trong một môi trường thuận lợi, minh bạch, thủ tục hành chính chuyên nghiệp, bộ máy nhà nước luôn trăn trở tìm ra các giải pháp mới để hỗ trợ kinh doanh, để mở đường thúc đẩy doanh nghiệp phát triển… thì ở Việt Nam thì giải pháp cơ bản của nhiều cơ quan nhà nước vẫn là loay hoay tháo gỡ khó khăn, giảm phiền hà, nhũng nhiễu!
“Thông điệp đã đủ mạnh, chính sách đã nhiều, định hướng đã rõ, chúng tôi cho rằng giải pháp quan trọng là hành động, là rút ngắn khoảng cách giữa chính sách và thực tế, xoá bỏ sự khác biệt giữa văn bản và thực thi.
Thời gian tới cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc giám sát và đánh giá kết quả thực thi các nghị quyết này. Không thể chấp nhận được việc một số lĩnh vực dù được chỉ đích danh trong các báo cáo tổng kết nghị quyết 19 là cản trở, cần thay đổi… nhưng sau bao năm vẫn không chịu thay đổi dù đó chỉ là những thông tư của cấp bộ. Những tinh thần rất cải cách của nghị quyết của Chính phủ này cần được đảm bảo thực hiện một cách nghiêm túc nhất trên thực tế”, ông Lộc nói
Vì vậy, theo ông Lộc, VN cần tiếp tục phát huy những rà soát độc lập và những ý kiến phản biện đối với các quy định đang cản trở, gây phiền hà cho doanh nghiệp, trước hết về điều kiện cấp phép, quy định thủ tục hŕnh chính để kiến nghị Chính phủ thay đổi. Qua quá trình Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) rà soát một cách độc lâp các điều kiện kinh doanh quy định tại cấp thông tư chuyển đổi lên nghị định theo yêu cầu của Chính phủ đã phát hiện hàng trăm các vấn đề bất cập, có thể bãi bỏ, sửa đổi, đơn giản hoá… cho thấy hoàn toàn có thể phát hiện thêm rất nhiều những vấn đề tương tự đang tồn tại không chỉ tại rất nhiều thông tư mà trong các nghị định, luật…và dự địa cải cách đang còn rất lớn.
Đồng thời, ông Lộc cho rằng, cần phải tính toán và đánh giá được chi phí và lợi ích của từng thủ tục hành chính đặt ra chứ không chỉ nêu chung chung là nhằm đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước, như cách làm phổ biến trước đây. VN dường như đang lạm dụng các giải pháp quản lý, đặt ra rất nhiều gánh nặng hành chính, thủ tục cấp phép và không bao giờ tính đến nó tạo ra gánh nặng như thế nào cho doanh nghiệp, ảnh hưởng thế nào đến sức cạnh tranh của hàng hoá của Việt Nam và gây thiệt hại như thế nào đến nền kinh tế nói chung. Những thủ tục như kiểm định formaldehyt đối với hàng dệt may trước đây, thủ tục dán nhãn năng lượng hay rất nhiều thủ tục chuyên ngành khác trong xuất nhập khẩu đang tạo ra những chi phí khủng khiếp cho doanh nghiệp trong khi mục tiêu quản lý đạt được là không rõ hoặc không đáng kể. Việc Bộ Công thương vừa rồi quyết định bãi bỏ thông tư 37 về formaldehyt là một điển hình tốt cần phải tiếp tục nhân rộng. Quỳnh Anh