Điểm sáng kinh tế Việt Nam năm 2016 và triển vọng năm 2017
11:09:31 | 19/12/2016
Năm 2016, Việt Nam chịu nhiều tác động tiêu cực từ bối cảnh bên ngoài, nổi bật là hạn hán, thiên tai và kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm hơn so với dự báo; tăng trưởng thương mại đạt mức thấp; giá dầu thô thất thường; nhu cầu và giá nông sản giảm mạnh… Tuy nhiên, về tổng thể, kinh tế cả nước vẫn tăng trưởng tích cực với các động thái nổi bật sau:
Các cân đối vĩ mô được bảo đảm, tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước
Năm 2016, Việt Nam tiếp tục bảo đảm các cân đối vĩ mô, lạm phát thấp, dự trữ ngoại tệ cao nhất và xuất siêu trở lại (đạt 2,84 tỷ USD trong 11 tháng qua). Tăng trưởng GDP cả năm ước khoảng 6,3-6,5%, thấp hơn kế hoạch, nhưng vẫn gấp đôi mức trung bình toàn thế giới và thuộc nhóm tăng cao hàng đầu khu vực và đặc biệt, vẫn duy trì động thái quý sau cao hơn quý trước liên tục nhiều năm qua.
Động lực tăng trưởng chung của nền kinh tế được hội tụ từ đà tăng trưởng tốt của công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ; Tổng cầu tiêu dùng tăng khá, với doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 85,8% GDP so với 77,3% GDP của năm 2015; Tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế tăng 15,1% so với năm 2015, tương đương 170% GDP. Thị trường chứng khoán tăng gần 20% và mức vốn hóa thị trường đạt 38% GDP so với 32,4% năm 2015; Đầu tư gián tiếp tăng trên 20%. Lòng tin của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tăng mạnh nhờ môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện...
Năm 2016 là năm lần đầu tiên Việt Nam áp dụng Chế độ tỷ giá trung tâm; Bộ chỉ số doanh nghiệp phát triển bền vững; Chỉ tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững; Cơ chế mua ngân hàng thương mại với giá 0 đồng và đưa lãi suất tiền gửi USD bằng 0%, cũng là năm tiệm cận gần nhất với trần nợ công và buộc phải nới trần nợ chính phủ từ 50% lên mức 55% GDP.…
Cân đối thu - chi NSNN vẫn được duy trì theo kế hoạch dù Việt Nam đã chạm trần nợ công và ngày càng kiểm soát chặt chẽ hơn bội chi NSNN…
Nông nghiệp đang phục hồi khá tích cực
Dù bị ảnh hưởng khá nặng nề do ô nhiễm môi trường biển, cũng như mưa, bão, ngập úng, khô, hạn và nhiễm mặn, làm giảm sút cả sản lượng đánh bắt, khai thác thủy sản, cũng như giảm diện và năng suất so với năm trước, nhưng sản xuất nông nghiệp đang có xu hướng hồi phục: Xuất khẩu rau quả tăng mạnh nhờ ứng dụng công nghệ cao và lần đầu vượt xuất khẩu gạo, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất siêu nông nghiệp lên tới 7 - 8 tỷ USD. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học, giống mới, quy trình công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp đã góp phần giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp. Hiện, cả nước đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới được sử dụng giống mới…, đưa Việt Nam thuộc vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về tôm, cá tra, cà phê, hạt điều, hạt tiêu và gạo.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung phát triển ổn định, đến cuối năm, cả nước không còn dịch cúm gia cầm. Công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng khá và có cải thiện về cơ cấu
Tính chung 11 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 7,3% (cùng kỳ năm ngoái tăng 9,9%); trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11%;
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 3.201,5 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 159,5 tỷ USD, tăng 7,5% và kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 156,6 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, cả nước xuất siêu 21,24 tỷ USD. Thị trường tài chính ổn định, lạm phát thấp
CPI tháng 11 tăng 0,48% so với tháng trước, tăng 4,50% so với tháng 12-2015 và tăng 4,52% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 11 tháng tăng 2,47% so với bình quân cùng kỳ năm 2015. Lạm phát cơ bản tháng 11-2016 tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 11 tháng tăng 1,82% so với bình quân cùng kỳ năm 2015. Nhìn chung, lạm phát ở mức thấp, dù có cao hơn năm trước do hội tụ các yếu tố tăng về giá xăng dầu, dịch vụ y tế (nhóm giá dịch vụ y tế, giáo dục đóng góp khoảng 3% trong tổng số 4% lạm phát 10 tháng đầu năm 2016).
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và gia tăng đầu tư xã hội
Năm 2016, ngành thuế đã chuẩn hóa và cắt giảm từ 385 thủ tục xuống còn 300 thủ tục hành chính thuế; sửa đổi, bổ sung 51/70 quy trình, quy chế quản lý thuế; mở rộng khai thuế điện tử cho doanh nghiệp và cá nhân; ký thỏa thuận với 45 ngân hàng thương mại để triển khai nộp thuế điện tử; tiếp tục rút ngắn thời gian nộp thuế từ 537 giờ xuống còn 117 giờ cuối năm 2015 và chỉ còn 110 giờ cuối năm 2016. Trên 71% người nộp thuế được hỏi hài lòng với kết quả cải cách của cơ quan thuế trong những năm qua.
Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2016 do Ngân hàng Thế giới thực hiện cho thấy, xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam 2016 tăng tới 9 bậc, xếp thứ 82/189 quốc gia được xếp hạng. Trong đó, Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư thiểu số tăng tới 31 bậc; Chỉ số nộp thuế của Việt Nam đã tăng 5 bậc, từ vị trí 173/189 lên vị trí 168/189.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) vừa công bố báo cáo nhan đề "Môi trường thương mại toàn cầu 2016", được thực hiện hai năm một lần. Theo đó, môi trường thương mại của Việt Nam tăng 14 bậc trong bảng xếp hạng "Thúc đẩy thương mại xuyên biên giới 2016", lên vị trí 73/136 nền kinh tế được đánh giá, với nhiều cải thiện trong quản lý biên giới, hải quan và cải thiện sự tiếp cận của hàng hóa nước ngoài đối với thị trường nội địa, thuế quan giảm và cải thiện về cơ sở hạ tầng vận tải, bảo vệ sở hữu trí tuệ và nâng cao hiệu quả của các cơ quan nhà nước về thực hiện kiểm dịch, an toàn thực phẩm...
Môi trường đầu tư được cải thiện đã khai thông rộng hơn các dòng vốn đầu tư xã hội, thể hiện ở sự gia tăng dư nợ tín dụng ngân hàng, gia tăng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, từ dòng vốn bổ sung đầu tư mở rộng và tăng vốn thực hiện cả FDI và giải ngân vốn đầu tư từ NSNN. Trong 11 tháng, cả nước có 101.683 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng vốn đăng ký là 797,7 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% về số doanh nghiệp và tăng 48,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015; Đặc biệt, có tới 1.463,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm; Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,8 tỷ đồng, tăng 26,5%. Ngoài ra, có 24.560 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 31,7% so với cùng kỳ năm trước (11 tháng năm 2015 tăng 31,2% so với cùng kỳ năm 2014), nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 11 tháng lên 126.200 doanh nghiệp, tức bằng hơn 20% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước. Hơn nữa, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 54.046 doanh nghiệp, giảm 13,8%, dù số doanh nghiệp giải thể là 10.468 doanh nghiệp, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước.
Đến 20-11, cả nước thu hút 2.240 dự án FDI mới (tăng 20,8%), tổng vốn đăng ký 13,0282 tỷ USD (giảm 3,9%); có 1.075 dự án tăng thêm vốn đầu tư 5,0748 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện ước đạt 14,3 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2015.
Bảng xếp hạng vinh danh 100 doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam 2016 lần đầu công bố cho thấy, điều đáng mừng là doanh nghiệp ngày càng quan tâm tới vấn đề phát triển bền vững.
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2017
Theo IMF dự báo tháng 10-2016, GDP toàn thế giới chỉ tăng trưởng 3,1% năm đến hết 2016 và sang 2017, con số này là 3,4%. Đây là mức giữ nguyên so với dự báo tháng 7-2016, nhưng vẫn thấp hơn 0,1% so dự báo hồi tháng 4-2016.
Theo WB, tăng trưởng thế giới tiếp tục duy trì ở mức 2,9% trong năm 2016 và 3,1% trong năm 2017.
OECD dự báo GDP toàn cầu của năm 2016 sẽ chỉ dừng ở 2,9% và sẽ tăng lên 3,3% năm 2017 và 3,6% năm 2018.
Sang năm 2017, giá dầu có thể tăng do nhu cầu dầu thô của thế giới có thể tăng nhẹ và sự đồng thuận đậm nét hơn (dù công khai hay ngấm ngầm) của các nước xuất khẩu dầu mỏ về kiểm soát giá dầu…, song các rủi ro làm giảm nhu cầu xăng dầu có thể đến từ các nguồn nhiên liệu thay thế, đặc biệt là sự xuất hiện của các phương tiện giao thông tiết kiệm năng lượng… Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam dù nhiều thách thức, nhưng sẽ ngày càng khởi sắc.
Một mặt, năm 2017, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt những khó khăn, thách thức, từ môi trường kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn truyền thống và phi truyền thống; thiên tai, biến đổi khí hậu, xung đột vũ trang và nợ công tăng nhanh; nông nghiệp tăng trưởng chậm, nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào khu vực FDI, tiến trình tái cơ cấu tổng thể còn chậm; hệ thống tài chính vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực ngân hàng, vấn đề nợ xấu tiếp tục đặt ra nhiều thách thức cho phát triển kinh tế bền vững. Đáng quan ngại, nhập siêu từ AEC, Hàn Quốc và Nhật Bản có xu hướng tiếp diễn. Lạm phát sẽ gia tăng áp lực cả do tăng dư nợ tín dụng và quy mô nợ, tăng lương, tăng giá và phí các dịch vụ công, cũng như do tăng giá xăng dầu ngoại nhập. Giá vàng và tỷ giá ngoại tệ trong nước tiếp tục tăng áp lực, biến động theo thị trường thế giới. Áp lực thất nghiệp và giảm nghèo đói vẫn là thách thức không nhỏ cho các vùng, địa phương còn nhiều khó khăn và đang bị ô nhiễm môi trường nặng nề..
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế năm 2017 sẽ được cải thiện khá, có khả năng đạt mức 6,7%, nhờ cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, tạo xung lực mới cho khu vực tư nhân trở thành động lực chính của năm 2017, cũng như nhờ giá năng lượng và nông sản thế giới dự báo phục hồi. Việt Nam tiếp tục bảo đảm thanh toán đầy đủ, kịp thời các khoản nợ đến hạn theo cam kết; đồng thời, cơ chế vay quản lý nợ công sẽ đậm tính thị trường hơn, nhất là cơ chế cho vay lại UBND cấp tỉnh từ nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ.
Mỹ sẽ vẫn là thị trường xuất khẩu và xuất siêu lớn nhất, còn Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu và nhập siêu lớn nhất của Việt Nam. Môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, tạo động lực mở rộng thêm các hoạt động đầu tư xã hội gia tăng, được thể hiện ở sự gia tăng dư nợ tín dụng ngân hàng, gia tăng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, vốn bổ sung đầu tư mở rộng và vốn thực hiện của FDI và vốn giải ngân từ NSNN.
Theo tinh thần Hội nghị T.Ư 4 khóa XII, Việt Nam sẽ đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công, ngân sách nhà nước và nợ công; Triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước, đến năm 2020 xuống dưới 4% GDP, đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP. Quy mô nợ công hằng năm, giai đoạn 2016 – 2020, không quá 65% GDP, nợ chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Đến năm 2030, nợ công không quá 60% GDP, nợ chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP.
Bên cạnh đó, sẽ có sự phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn; giữa thị trường vốn cổ phiếu và trái phiếu; giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp; giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng; thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và tín dụng tiêu dùng đồng thời, đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước...