Vận hội kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp

10:13:15 | 20/1/2017

Nỗ lực xây dựng hệ sinh thái cho khởi nghiệp của Chính phủ đang đưa đến không gian mới cho khởi nghiệp. Ngay cả với Nghị quyết 35/2016/NQ-CP về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 cũng được gọi là nghị quyết về khởi nghiệp theo nghĩa rộng, vì hệ thống giải pháp đang khuyến khích doanh nhân tái cơ cấu, thay đổi, vươn tới chuẩn mực toàn cầu để không bị chậm chân trong dòng chuyển dịch mới của thương mại và đầu tư thế giới. Phóng viên Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với TS Vũ Tiến Lộc- Chủ tịch VCCI xung quanh vấn đề này.Lan Anh thực hiện.

Năm 2016 là năm đầu tiên mà số lượng doanh nghiệp thành lập mới ở Việt Nam vượt ngưỡng 100.000 doanh nghiệp. Ông đánh giá thế nào qua con số này?


Điều này chứng tỏ niềm tin của giới kinh doanh đang được khơi dậy. Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố, số doanh nghiệp (DN) thành lập mới năm 2016 mức tăng kỷ lục so với từ trước đến nay với 110.100 DN, tăng 16,2% so với năm 2015.

Số vốn cam kết đưa vào thị trường là 891.094 tỷ đồng, đạt tỷ trọng 8,09 tỷ đồng cho mỗi doanh nghiệp thành lập mới; tăng 48,1% so với cùng kỳ năm 2015. Số DN hoạt động trở lại là 26.689 doanh nghiệp, tăng 43,1%.

Những tín hiệu tích cực này cho thấy các giải pháp của Chính phủ trong việc hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đang phát huy hiệu quả, tạo đà cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.

Không chỉ với những doanh nghiệp bắt đầu khởi ngiệp, điều tra trên 10.000 doanh nghiệp trong nước của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong năm vừa qua cũng cho thấy niềm tin vào triển vọng kinh tế của cộng đồng doanh nghiệp đang trên đà được củng cố mạnh mẽ hơn: 49% doanh nghiệp dự kiến sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong vòng 2 năm tới. Đây cũng là mức cao nhất của chỉ tiêu này trong vòng 5 năm điều tra gần đây của VCCI. Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp tục duy trì quy mô kinh doanh hiện tại là 44,5%, trong khi số dự kiến giảm quy mô hoặc đóng cửa, giải thể chỉ chiếm chưa đầy 7%. Khu vực doanh nghiệp FDI cũng có những cảm nhận tích cực hơn về môi trường kinh doanh của Việt Nam Năm trong thời gian qua, 11% doanh nghiệp FDI cho biết đã tăng đầu tư hoạt động và 62% tuyển thêm lao động mới. Số lượng việc làm theo điều tra PCI-FDI được ghi nhận tăng cao nhất trong vòng 5 năm qua. Tâm lý lạc quan về kế hoạch mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong hai năm tới đã tăng lên nhanh chóng. Gần một nửa số doanh nghiệp trong mẫu điều tra PCI-FDI cho biết có ý định tăng quy mô hoạt động – cao nhất kể từ năm 2010.

Với những tín hiệu tích cực trên, việc đạt số lượng 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 là rất khả thi.

Thưa ông, Chính phủ mới đi vào hoạt động đã có nhiều động thái tích cực hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp. Ông đánh giá thế nào về những cải thiện trong môi trường kinh doanh trong thời gian vừa qua?

Năm 2016 vừa qua là năm đầu tiên của Chính phủ mới, dù thời gian chưa nhiều nhưng cộng đồng kinh doanh thấy rõ những định hướng, cam kết trong phát triển kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh đã Chính phủ.

Hàng loạt giải pháp cụ thể đã được Chính phủ thực hiện như trình Quốc hội sửa đổi nhiều luật liên quan đến đầu tư và kinh doanh như Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật sửa đổi các luật liên quan đến đầu tư kinh doanh tập trung vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đặc biệt, Chính phủ trong thời gian vừa rồi đã đảm bảo được những quy định đổi mới của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2014 được thực hiện nghiêm túc, hàng nghìn điều kiện kinh doanh đang được quy định tại thông tư phải bãi bỏ, tiến hành rà soát nghiêm túc các điều kiện kinh doanh và ban hành gần 50 nghị định thay thế. Một khối lượng lớn công việc rất lớn đã được thực hiện trong thời gian rất ngắn, đảm bảo được mốc thời gian 1/7/2016 là các điều kiện kinh doanh tại thông tư phải bãi bỏ như luật quy định, nhưng cũng đảm bảo chất lượng các điều kiện kinh doanh này.




Tháng 3 năm nay Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19 năm 2016, nghị quyết 19 thứ 3 về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tháng 5 Chính phủ lại tiếp tục ban hành Nghị quyết 35 về phát triển doanh nghiệp với mục tiêu và tầm nhìn cả nhiệm kỳ. Các nghị quyết này đều có mục tiêu cụ thể về các lĩnh vực cần thay đổi, so sánh được với các quốc gia khác trong khu vực và có lộ trình thực hiện chi tiết.

Điểm tích cực nhất có thể thấy là ít có thời điểm nào, Chính phủ và các bộ ngành đã dành nhiều thời gian, ưu tiên cho công tác xây dựng thể chế, sửa đổi, ban hành pháp luật như thời gian vừa rồi. Và cũng ít cho thời điểm nào Chính phủ dành rất nhiều thời gian lắng nghe và đối thoại với các doanh nghiệp như thời gian qua. Một hội thảo quy mô rất lớn với doanh nghiệp cả nước được tổ chức ngay những tuần đầu tiên của nhiệm kỳ Chính phủ mới với sự tham gia trực tiếp của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và rất nhiều bộ trưởng. Chính điều này thúc đẩy hàng loạt những hoạt động đối thoại với doanh nghiệp, lắng nghe doanh nghiệp được các địa phương tổ chức dồn dập sau đó. Chính phủ cũng đã xây dựng cổng thông tin riêng để tiếp nhận phản hồi của doanh nghiệp.

Tuy đã có nhiều cải cách về thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh nhưng vẫn còn nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khởi sự. Ông có thể cho biết cụ thể hơn về những khó khăn này?

Thúc đẩy khởi nghiệp và thành lập doanh nghiệp là một chủ trương đã được Chính phủ xác định trong thời gian qua và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp khởi sự của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần 3.700 doanh nghiệp mới thành lập của VCCI thực hiện cho thấy có tới 36% doanh nghiệp gặp thua lỗ và 18% doanh nghiệp hòa vốn. Số doanh nghiệp cho biết có lãi là 46%. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp khá lạc quan về tương lai khi có 38% doanh nghiệp mới thành lập chắc chắn sẽ tăng quy mô kinh doanh trong 2 năm tới, 17% dự kiến có thể tăng và duy trì quy mô hiện tại là 39%, có khả năng đóng cửa là 6%.

Doanh nghiệp khởi sự cũng phản ánh 3 nhóm khó khăn hàng đầu đối với hoạt động kinh doanh của mình là: khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng (44%); tìm kiếm nguồn vốn (41%) và tìm kiếm sự hỗ trợ từ cơ quan địa phương (36%). Ngoài ra, cũng có tới 27% gặp khó khăn khi xử lý các vấn đề liên quan tới pháp luật và hành chính (như đăng ký doanh nghiệp, thuế…). Tìm kiếm nhân sự, tìm nhà cung cấp phù hợp hay tìm kiếm mặt bằng kinh doanh cũng là những khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp khởi sự.

Liên quan tới tiếp cận nguồn vốn, thời hạn khoản vay của các doanh nghiệp trung bình là 12 tháng, với mức lãi suất 8%/năm, tương đương với mức lãi suất áp dụng cho các doanh nghiệp lâu năm. Tuy vậy, gần 90% doanh nghiệp cho biết họ sẽ không thể vay vốn ngân hàng nếu không có tài sản thế chấp.

Đối với sự hỗ trợ doanh nghiệp từ chính quyền địa phương, cảm nhận của các doanh nghiệp cho thấy, dường như các cơ quan chính quyền vẫn không thay đổi trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp. Tỉ lệ cao nhất (66%) doanh nghiệp cho biết thực tế không thay đổi so với kỳ vọng của họ (không tốt hơn cũng không tệ hơn). Thị trường biến đổi và từng ngày ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước vẫn không có tác động nhanh chóng, hiệu quả hơn thì khó có thể thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Tại hội nghị của Thủ tướng với cộng đồng doanh nghiệp, ông đã đề nghị trong 5 năm tới, Chính phủ nên xác định là 5 năm Quốc gia khởi nghiệp, cả nước tập trung toàn lực phát triển doanh nghiệp. Vậy để phát triển cần phải làm những gì, thưa ông?

Một nghị quyết về chương trình hành động quốc gia phát triển DN cho cả nhiệm kỳ là một điều hết sức cần thiết, bảo đảm thực hiện được hai yêu cầu xuyên suốt là củng cố niềm tin, vực dậy tinh thần, phục hồi và phát triển doanh nghiệp.

Theo định hướng chính sách đó, có hai việc cần làm ngay. Thứ nhất là phải có những giải pháp chính sách và hành chính quyết liệt để giảm mạnh rủi ro và chi phí, đặc biệt là chi phí không chính thức để bảo đảm an toàn và “khoan sức” được cho DN.

Có thể giảm thiểu các rủi ro và chi phí về hành chính; giảm lãi suất thực cùng với việc giải quyết nợ xấu một cách thực chất; đẩy mạnh cải cách và minh bạch hóa hệ thống thu-chi các khoản đóng góp liên quan đến lao động.

Đồng thời, xem xét cải cách theo hướng cắt giảm thuế và phí, bỏ thuế khoán, thay vào đó là thuế thu nhập DN và thuế thu nhập cá nhân, miễn thuế môn bài cho DN nhỏ và siêu nhỏ, hộ kinh doanh...

Thứ hai là vừa hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường với những đổi mới, động lực mới, vừa tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp.

Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế thông qua tăng cường chỉ đạo, giám sát thực thi Luật Doanh nghiệp,Luật đầu tư mới… cũng cần ban hành các chương trình thúc đẩy khởi nghiệp, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển thành DN, chuyển các hoạt động kinh tế phi chính thức sang chính thức trên diện rộng.

Đồng thời, cần có chính sách thúc đẩy tăng cường kết nối doanh nghiệp, trong đó khuyến khích kết nối khu vực doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI thay vì chỉ tập trung vận động thu hút đầu tư FDI như hiện nay...

Ngoài ra, thành lập Hội đồng quốc gia về phát triển DN nhỏ và vừa; bảo đảm nguyên tắc cơ quan quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại, đầu tư không đồng thời là cơ quan tổ chức các hoạt động xúc tiến; đẩy mạnh chuyển giao các dịch vụ công từ cơ quan quản lý nhà nước sang cho các tổ chức xã hội và thị trường…

Nếu chưa có hệ thống chính sách ủng hộ kinh doanh bài bản, chuyên nghiệp thì sức lực của doanh nhân san sẻ vào nhiều phần việc ngoài kinh doanh. Hiện giờ, Chính phủ đang cam kết tạo môi trường an toàn, minh bạch cho doanh nghiệp, bỏ cơ chế xin - cho, tôi tin là sức sáng tạo của doanh nhân Việt Nam sẽ lên ngôi. Vì họ đã sáng tạo để vượt qua những rủi ro, bất định trong thể chế thời gian qua, thì hiện nay, họ hoàn toàn có đủ năng lực để vượt qua những thách thức của thị trường thường dễ đoán định hơn.

Thưa ông, năm 2017, Việt Nam đăng cai tổ chức Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC 2017). Ông có thể nói rõ hơn về sự kiện này có tác động thế nào đến cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam?

Năm APEC 2017 với chủ đề "Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung" là trọng tâm đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, thể hiện mong muốn của Việt Nam trong việc đóng góp tích cực vào tiến trình APEC, góp phần đưa châu Á-Thái Bình Dương ngày càng phát triển, thịnh vượng.

13 trong 20 thành viên APEC là các đối tác chiến lược, toàn diện của Việt Nam, 13 trong số 15 Hiệp định FTA nước ta là từ các thành viên APEC. APEC chiếm 78% FDI, trên 70% thương mại và 70% lượng khách du lịch vào Việt Nam.

Việc đăng cai APEC 2017 là bước cụ thể hóa chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ toàn diện của Việt Nam với các đối tác, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác, nguồn lực của APEC để tạo động lực mới cho các doanh nghiệp hợp tác đầu tư và phát triển. Đăng cai APEC 2017 còn là dịp để quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc, hình ảnh đất nước đổi mới, năng động và giàu tiềm năng của Việt Nam.

Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang có những diễn biến rất khó lường và phức tạp, chủ nghĩa bảo hộ cũng như một số nơi có tư tưởng chống toàn cầu hóa trỗi dậy, thì hoạt động của các nền kinh tế APEC, đặc biệt là trong năm APEC 2017 này, các nền kinh tế đều muốn Việt Nam đóng vai trò của mình là tập hợp và tiếp tục để diễn đàn APEC là đầu tàu kéo nền kinh tế của thế giới vượt qua những khó khăn hiện tại, đóng góp trực tiếp.

Muốn làm được điều này, các doanh nghiệp sẽ vừa là người thực hiện vừa là người được hưởng thụ từ những cơ chế sáng kiến để làm sao tạo được môi trường thông thoáng nhất cho các doanh nghiệp có thể hoạt động được trong các nền kinh tế APEC trong đó có Việt Nam. Khi tạo được môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp cũng là tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là các lợi ích rất sát sườn với doanh nghiệp.

Trong khuôn khổ ISOM sẽ có đối thoại với các doanh nghiệp, cuộc đối thoại này sẽ tạo ra hiệu ứng rất tốt. Các doanh nghiệp sẽ đóng góp các ý tưởng của họ để tạo ra môi trường thuận lợi cho kinh doanh nhưng đồng thời các quan chức cao cấp cũng sẽ trao đổi lại với các doanh nghiệp để làm sao kéo được các doanh nghiệp tham gia tích cực hơn vào quá trình trao đổi tự do hóa thương mại đầu tư và phát triển ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.