Là một khu vực trọng yếu của Việt Nam, với dân số 18 triệu người, Đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò quan trọng trong các thành công kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy vậy, Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang ngày càng chứng kiến nhiều hiện tượng biến đổi khí hậu.
Chỉ trong vòng hai năm qua, sinh kế của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi hạn hán, ngập mặn. Chỉ riêng năm nay, ngập úng nặng nề tại khu vực ven biển và xói lở ven sông đã ảnh hưởng đến cuộc sống của những cộng đồng gặp nhiều nguy cơ trên khắp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới tại VN cho rằng, để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long cần có sự thay đổi cơ bản về mô hình – từ cách nhìn bó hẹp trong phạm vi đồng ruộng, địa phương sang tầm nhìn bao quát được nhiều địa phương, toàn khu vực, vượt qua ranh giới địa lý; từ cách làm ngắn hạn, hạn chế trong ngành nghề sang mô hình dài hạn, đa ngành, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Để thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực, thích ứng với biến đổi khí hậu và đầu tư hạ tầng cho khu vực cần áp dụng cách tiếp cận “Chính phủ quy về một mối”. “Có nghĩa là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trung ương và kinh tế tư nhân để sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài chính, tài nguyên thiên nhiên có được”, ông Ousmane Dione nhấn mạnh
Theo ông Ousmane Dione, VN cần áp dụng 4 nguyên tắc để tiếp tục củng cố nền tảng cho chương trình phát triển lâu dài, bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Một là phải tính đến các yếu tố nguy cơ, bất định. Do Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cao độ thấp nên biến đổi khí hậu cùng các ảnh hưởng của nó (thừa nước, thiếu nước, nước không bảo đảm vệ sinh và các hậu quả đi kèm) sẽ tiếp tục làm trầm trọng thêm những vấn đề về sử dụng nguồn nước và đất đai. Tính đến các yếu tố bất định – từ các ảnh hưởng ở thượng nguồn và hạ nguồn, cũng như yếu tố bất định do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu giờ đây sẽ không còn chỉ là cần thiết nữa, mà là một đòi hỏi bắt buộc. Một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến nhiều ngành nghề, địa phương cũng cần được lên mô hình theo các tình huống cụ thể để phục vụ công tác quy hoạch dài hạn, xây dựng lộ trình ứng phó, đưa ra các phương án đầu tư.
Hai là cần nâng cao hiệu quả, hiệu suất. Việt Nam đã có những cam kết chắc chắn về nâng cao hiệu quả xử lý các vướng mắc về tài chính, do vậy, tăng cường hiệu quả, hiệu suất sử dụng các nguồn tài chính sẽ càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Tình trạng phân tán ngân sách, đầu tư hiện nay cũng như sự thiếu hiệu quả trong việc xây dựng những môi trường thuận lợi đang cản trở tiềm năng tăng trưởng chung của Đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, VN cần phải có những giải pháp táo bạo để tận dụng hợp lý các nguồn tài nguyên khan hiếm, ban hành những chính sách để định hướng mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên, chiến lược định vị nơi cần đầu tư hạ tầng, và đưa ra được những phương án đầu tư tối ưu. Đề án An ninh Nguồn nước khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của Bộ Xây dựng, trong đó đề xuất tập hợp một số địa phương lại để xây dựng nguồn nước bền vững, chống ngập mặn và khắc phục khan hiếm nguồn nước, cũng như Đề án Vận tải Đường thủy khu vực miền Nam của Bộ Giao thông Vận tải là những bước đi đúng hướng sẽ tạo tiền đề để tăng cường hợp tác hiệu quả nhằm tìm ra giải pháp cho những thách thức chung.
Ba là cần coi trọng liên kết vùng. Để tận dụng đầy đủ tiềm năng phát triển của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, tối ưu hóa mối liên kết giữa các địa phương rõ ràng là cần thiết, đặc biệt trong quản lý đất đai, sử dụng nguồn nước, kết nối hạ tầng. Nếu không có sự phối hợp tốt, các quyết định, phương án đầu tư của địa phương này có thể dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực ngoài dự tính đối với tiềm năng phát triển của các địa phương khác.
Bốn là tận dụng tốt các lợi thế so sánh. Để tạo chuyển biến về sinh kế và đáp ứng nhu cầu về hạ tầng ở vùng thượng Đồng bằng sông Cửu Long cần phải chú trọng vào phát triển nông nghiệp lúa nước và hạn chế ngập úng. Mặt khác, các khu vực ven biển cần phát triển sản xuất, kinh doanh ở những địa bàn nước lợ để thích ứng với tình hình ngập mặn ngày càng tăng. Nếu tận dụng được yếu tố lợi thế nhờ quy mô, các tiểu vùng của khu vực sẽ nâng cao được sức cạnh tranh, tham gia được vào các chuỗi giá trị toàn cầu, để từ đó tăng thu nhập, tìm được cơ hội phát triển các nguồn sinh kế bền vững cho người dân địa phương.
Ông Ousmane Dion cho rằng, những yếu tố chính cần thiết để tạo sự chuyển biến để Đồng bằng sông Cửu Long có thể thích ứng được với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững đòi hỏi phải chú trọng 4 nội dung: thể chế, thông tin, đầu tư, thực hiện.
Khó có thể nói hết tầm quan trọng của việc hợp tác trong khu vực, giữa 13 tỉnh thành khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nếu muốn tập hợp nguồn lực, bổ sung hỗ trợ cho nhau và đạt được lợi thế nhờ quy mô. Sự hợp tác trong khu vực này là cần thiết để thoát khỏi lề lối quy hoạch cũ theo kiểu địa phương, đơn lẻ và hướng tới cách tiếp cận có sự phối hợp, bao quát hơn về không gian, lồng ghép. Nhờ vậy sẽ nâng cao hiệu quả, khắc phục các vấn đề về sự chồng chéo quyền hạn giữa các ban ngành, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các bên.
Song song với đó, vì là một trong những khu vực đồng bằng được nghiên cứu nhiều nhất trên thế giới, Đồng bằng sông Cửu Long phải có một cơ sở dữ liệu tổng hợp, đáng tin cậy, với những quy trình chia sẻ hiệu quả, thống nhất. Đồng thời, do nhu cầu đầu tư lớn nên để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long cần tuân thủ chặt chẽ các bước xác định, lập chương trình, sắp xếp ưu tiên đầu tư để đảm bảo hiệu quả, hiệu suất đầu tư, có tính đến các yếu tố bất định, những sự đánh đổi, lồng ghép vào quá trình nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng. Công tác này sẽ phát sinh những chi phí và đòi hỏi phải huy động nguồn lực. VN có thể cân nhắc thành lập một Quỹ Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, có cơ chế quản lý hoạt động rõ ràng, để huy động những nguồn vốn cấp bách, dành riêng cho từng mục đích, phù hợp với các nguyên tắc chung về quản lý bền vững, thích ứng khu vực. Có thể huy động vốn từ đầu tư cho cơ sở hạ tầng; huy động vốn tư nhân, huy động vốn thông qua đổi mới, nghiên cứu – nhằm tạo chuyển biến về sinh kế, và cơ chế giảm nghèo, hỗ trợ các cộng đồng yếu thế.
Chỉ số thành công trong việc đổi mới mô hình phát triển cho Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không chỉ xác định được dựa trên thiết kế mô hình, mà sẽ được xác định cụ thể hơn từ những hoạt động thực tế với các kết quả cụ thể. Sự đổi mới cần thiết cho Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là cả một chặng đường nhưng có một điều rõ ràng là càng chờ đợi lâu trước khi thực hiện những đổi mới đó thì cái giá phải trả vì không có hành động cần thiết sẽ càng cao.
Anh Mai