Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thổi bùng khát vọng Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc

09:51:19 | 3/3/2023

Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, qua đó nâng cao sức mạnh nội lực, xử lý hiệu quả các vấn đề nội tại và thách thức nổi lên, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là hết sức cần thiết để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững

Bối cảnh hiện tại của thế giới đang biến động rất khó lường, không chắc chắn, phức tạp và mơ hồ, kinh tế, chính trị thế giới trải qua nhiều biến cố, bất định khó lường. Biến cố trước chưa kết thúc, biến cố sau đã xuất hiện khiến trật tự và hoạt động kinh tế thế giới thay đổi mạnh mẽ. Cạnh tranh địa chiến lược và kinh tế giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, trên nhiều lĩnh vực. Những giá trị của chủ nghĩa tự do kinh tế bị thách thức nghiêm trọng, nền quản trị toàn cầu dựa trên các quy tắc của hệ thống quốc tế suy yếu, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay trở lại.

Nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, bất kỳ biến động nào về kinh tế, địa chính trị đều tác động đến kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, năng lực tự chủ của các ngành sản xuất trong nền kinh tế còn ở mức thấp với việc phải nhập khẩu hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu cho sản xuất.

Trong bối cảnh đó việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, qua đó nâng cao sức mạnh nội lực, xử lý hiệu quả các vấn đề nội tại và thách thức nổi lên, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đạt được độc lập, tự chủ về kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Độc lập về kinh tế đảm bảo nền kinh tế phát triển không phụ thuộc vào bên ngoài, phát triển trên mọi phương diện dựa trên nguồn lực, sức mạnh và công nghệ trong nước phù hợp với điều kiện và bối cảnh thực tế của đất nước.

Nhận diện nền kinh tế độc lập, tự chủ

Nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh một thế giới phẳng, toàn cầu hóa là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao, ít bị tổn thương trước những biến động của khu vực và quốc tế, trong bất cứ tình huống nào cũng duy trì được các hoạt động bình thường của đất nước và phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đáp ứng được tính độc lập về thể chế, về thực lực và tiềm lực kinh tế. Độc lập, tự chủ trong xây dựng thể chế kinh tế, trong triển khai thực hiện, trong hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp và tuân thủ các quy định của kinh tế toàn cầu và khu vực.

Dưới góc độ này, độc lập, tự chủ kinh tế chính là chủ động tìm và xác lập một vị thế phù hợp trong hệ thống kinh tế thế giới, tham gia kiến tạo, biết vận dụng sáng tạo các quy định và cam kết quốc tế phù hợp với điều kiện và khả năng của đất nước.

Tiềm lực kinh tế thể hiện ở năng lực chống chịu, trụ vững, phục hồi và phát triển trước các biến cố, cú sốc trong nước và bên ngoài; thể hiện ở khả năng cạnh tranh của các khu vực kinh tế, đặc biệt của khu vực doanh nghiệp và các sản phẩm quốc gia.

Con người trong mọi lĩnh vực, trên mọi phương diện và ở mọi thời điểm luôn là yếu tố quyết định, đảm bảo thành công cho tất cả các mục tiêu cao quý. Để đạt được độc lập, tự chủ về kinh tế đòi hỏi phải đào tạo được đội ngũ công chức và nhân tài của đất nước có năng lực điều hành hiệu quả, tự lực tối đa trong phát triển khoa học và công nghệ, trong quản trị quốc gia và doanh nghiệp.

Nhân tài trong khoa học và công nghệ, trong quản trị là yếu tố then chốt, quan trọng trong xây dựng và phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Ngày nay, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, nhân tài trong khoa học và công nghệ có vai trò vô cùng quan trọng, là nhân tố quyết định để tăng cường, củng cố nền tảng vật liệu và công nghệ quốc gia, đạt được sự phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.

Các nước, đặc biệt các nước đang phát triển mong muốn độc lập, tự chủ về kinh tế phải nỗ lực cao nhất để nâng cao hiệu quả, lợi ích trong giáo dục; trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ; trong đào tạo, sử dụng đội ngũ công chức và nhân tài theo một chiến lược, kế hoạch, phương pháp bài bản, đồng thời chủ động phát triển khoa học và công nghệ hiện đại.


TS. Nguyễn Bích Lâm: Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.

Tự chủ là kim chỉ Nam trong xây dựng nền kinh tế độc lập

Điều quan trọng nhất trong xây dựng nền kinh tế độc lập đó là phải bảo đảm thực hiện tối đa nguyên tắc tự chủ, nghĩa là xây dựng và phát triển nền kinh tế có thể vận hành bằng năng lực nội tại của đất nước, dựa vào các nguồn lực, công nghệ của đất nước với lực lượng lao động sáng tạo, có trình độ chuyên môn và kỹ năng.

Đặc biệt, để thành công trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta phải xác định tự chủ là nguyên tắc cần được thấm nhuần trong suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo, đến từng người dân, từng thực thể trong xã hội vào mọi thời điểm để thúc đẩy việc xây dựng một nền kinh tế quốc gia độc lập, dựa vào nguồn lực nội tại, dựa trên nền tảng nguyên vật liệu và công nghệ của đất nước. Nói cách khác, nguyên tắc tự chủ phải trở thành kim chỉ Nam, là dây an toàn xuyên suốt trong quan điểm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, là chìa khoá để độc lập kinh tế.

Thực hiện nguyên tắc tự chủ không có nghĩa và không cổ vũ việc xây dựng, phát triển một nền kinh tế đóng hay đóng cửa hoạt động trao đổi kinh tế, công nghệ và hợp tác với bên ngoài. Nguyên tắc này đòi hỏi nền kinh tế phải thu nhận những gì còn thiếu, còn yếu, lạc hậu qua trao đổi hợp tác kinh tế, công nghệ với các nước.

Một số thách thức khi xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ

Thứ nhất, sản xuất phụ thuộc vào bên ngoài

Sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, thế và lực của nền kinh tế nước ta đã tăng lên đáng kể. Đất nước đã ra nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững, góp phần tạo dựng môi trường thuận lợi và tăng cường nguồn lực phát triển đất nước.

Bên cạnh những thành tựu, tiềm năng và lợi thế phát triển, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao nhưng chủ yếu dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển chiều sâu, năng suất lao động thấp, tụt hậu so với các nước trong khu vực.

Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất và xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tới 40,11% trong tổng chi phí nguyên vật liệu dùng trong sản xuất của nền kinh tế.

Tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo - ngành có vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng của đất nước chiếm tới 50,98%. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển khiến Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Việt Nam mỗi năm phải nhập tới 85,4% tổng nhu cầu sơ xợi trong nước. Nhiều ngành sản xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, với da giày là khoảng 45% và sản xuất nhựa lên tới 80%. Thậm chí, thế mạnh truyền thống của Việt Nam là nông nghiệp cũng phải nhập khẩu hơn 70% máy móc, thiết bị; 80% giống rau và 60% giống ngô;…

Nguyên vật liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất phụ thuộc vào một số ít thị trường. Đây là rủi ro đối với kinh tế Việt Nam khi các thị trường này xảy ra biến cố. Chẳng hạn, Trung Quốc là thị trường chủ yếu của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn bộ nền kinh tế, nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất.

Hai là, quá trình mua bán, sáp nhập và đầu tư nước ngoài có thể đẩy nền kinh tế ra xa "bến bờ" độc lập, tự chủ

Trong những năm qua, vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế được củng cố và khẳng định. Tuy vậy, thương mại quốc tế của nước ta phụ thuộc khá lớn vào khu vực FDI. Theo số liệu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực FDI chiếm 74,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế, kim ngạch chỉ của 2 nhóm hàng thuộc khu vực FDI chiếm tới 30,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này phản ánh thương mại quốc tế của nước ta dễ bị tổn thương.

Từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng chuyển dịch rất đáng chú ý với mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng nhanh.

Các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng ưa chuộng hình thức M&A là điều dễ hiểu vì đầu tư vào Việt Nam bằng hình thức này nhanh hơn so với đầu tư trực tiếp thành lập pháp nhân mới. Việc các nhà đầu tư nước ngoài mua bán và sáp nhập khiến quyền sở hữu các tổ chức kinh tế của nước ta rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, đưa đến kinh tế Việt Nam phụ thuộc nước ngoài.

Thực tế cho thấy, khi dịch COVID-19 bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Chính phủ các nước đã khẩn trương đưa ra giải pháp bảo vệ các doanh nghiệp có thể bị phá sản do đại dịch khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài.

Ngày 25/3/2020, Ủy ban châu Âu công bố hướng dẫn mới quy định bổ sung về tiêu chuẩn sàng lọc đầu tư nước ngoài trong và sau đại dịch, khuyến nghị mạnh mẽ các quốc gia thành viên thực thi nghiêm túc cơ chế sàng lọc đầu tư nước ngoài để bảo vệ những tài sản nhạy cảm khỏi bị nước ngoài thôn tính trong đại dịch.

Tây Ban Nha, Ý và Pháp đã sửa đổi chi tiết các quy định về đầu tư nước ngoài, như giảm ngưỡng xem xét đối với một số hoặc tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời mở rộng danh mục các lĩnh vực phải xem xét. Các quốc gia như Úc, Canada và Ấn Độ đều áp đặt những hạn chế chặt chẽ hơn đối với đầu tư nước ngoài để bảo vệ các mục tiêu trong nước khỏi bị nước ngoài chiếm đoạt.

Ngày 28/4/2020, Pháp ra thông báo hạ thấp ngưỡng kiểm soát đối với việc mua lại cổ phần của các nhà đầu tư ngoài châu Âu, thắt chặt hơn nữa ngưỡng kiểm soát ở mức 10% so với ngưỡng 25% đã được hạ xuống chỉ vài tuần trước đó.

Ngày 17/4/2020, Ấn Độ tuyên bố thắt chặt các quy định về đầu tư nước ngoài để hạn chế việc chiếm đoạt cơ hội và mua lại các công ty Ấn Độ do đại dịch. Ấn Độ còn đưa ra hạn chế mới áp dụng cho các nhà đầu tư từ các quốc gia có chung biên giới trên bộ với Ấn Độ hoặc chủ sở hữu thụ hưởng là công dân của quốc gia đó.

Chính phủ Ấn Độ phê duyệt tất cả các dự án đầu tư nước ngoài thuộc mọi lĩnh vực đến từ các quốc gia có chung đường biên giới, đồng thời Chính phủ cũng yêu cầu phê duyệt đối với những thay đổi về quyền sở hữu có lợi đối với bất kỳ nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiện tại hoặc tương lai nào thuộc phạm vi của hạn chế mới. Sửa đổi này tác động lớn đến sự dễ dàng đầu tư từ Trung Quốc.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội

Thị trường lao động nước ta hiện nay có một số hạn chế đáng lo ngại: cả bên cung và bên cầu chưa đáp ứng được một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Cơ cấu lao động theo 3 khu vực kinh tế chưa hợp lý, lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tới 27,5% tổng số.

Số lượng lao động tăng nhanh ở khu vực phi chính thức. Chất lượng lao động không đáp ứng nhu cầu. Tính bấp bênh và dễ bị tổn thương đến việc làm và thu nhập của người lao động khá cao. Lao động thời vụ phát triển, hạn chế về đào tạo kỹ năng.

Theo số liệu thống kê năm 2021, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ rất thấp. Lao động không có trình độ chiếm 72,5% trong tổng số lực lượng lao động; trình độ sơ cấp 6,8%; trình độ trung cấp 4,3%; Cao đẳng 3,7%; Đại học trở lên 12,5%.

Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản đánh giá khả năng hội nhập của lao động Việt chưa cao. Trình độ tay nghề tương đối thấp so với tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu trong thời kỳ 4.0 (GCI 4.0) năm 2019 chỉ ra Việt Nam xếp thứ 67/141 quốc gia về chỉ số GCI 4.0, nhưng chỉ xếp thứ 93 về kỹ năng.

Bốn là, nhân lực khoa học và công nghệ vẫn còn hạn chế về chất lượng

Số lượng và trình độ cán bộ nghiên cứu tuy đã tăng lên và được nâng cao nhưng số cán bộ nghiên cứu quy đổi toàn thời gian của Việt Nam năm 2015 đạt bình quân 6,9 cán bộ trên một vạn dân, thấp hơn so với Thái Lan 9,7; Trung Quốc 11,1; Malaysia 20,5 và thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản 53,9; Singapore 66,6.

Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học và chuyên gia giỏi, đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao.

Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm còn yếu, khó hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh và các nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động lâu dài, bền vững.

Điều này dẫn đến nội dung các nhiệm vụ khoa học và công nghệ bị phân tán, hạn chế trong phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ quan trọng, quy mô lớn.

Bên cạnh đó nhân lực khoa học và công nghệ phân bố không đều, một bộ phận sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý.

Năm là, chưa có chính sách trọng dụng hiệu quả nhân tài quốc gia

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng những nhiệm kỳ gần đây đều khẳng định sự cần thiết phải đào tạo, thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài. Luật Cán bộ, Công chức đã quy định: "Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng".

Những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh sự nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng nhân tài trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy vậy, chính sách thu hút, đãi ngộ chưa tạo thành động lực để phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học có trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa có chính sách thoả đáng để thu hút và sử dụng các trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cho nước nhà.

Để có nhân tài trong các cơ quan, tổ chức hết lòng hiến dâng tài năng phục vụ đất nước đòi hỏi người lãnh đạo ở các cơ quan, tổ chức đó phải thực sự có tài, có tâm. Hiện nay, công tác nhân sự, chọn cán bộ lãnh đạo theo quy trình tưởng là chặt chẽ nhưng không dựa vào đánh giá kết quả cụ thể họ đã làm được gì trong thực thi nhiệm vụ, trong đề xuất chính sách, đổi mới nâng cao hiệu quả công việc.

Kinh nghiệm từ Mỹ - quốc gia có nền kinh tế, quân sự phát triển hàng đầu thế giới cho thấy, vị thế của nước Mỹ được tạo dựng, duy trì và đảm bảo bằng nền tảng khoa học công nghệ tiên tiến với đội ngũ nhân lực dồi dào về số lượng, ưu tú và vượt trội về chất lượng. Chính phủ Mỹ qua tất cả các nhiệm kỳ tổng thống luôn xác định "Nhân lực là trung tâm của mọi sự phát triển", Chính phủ tập trung thực thi với mức độ ưu tiên chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài từ khắp các châu lục, coi đó là chiến lược sống còn xuyên suốt lịch sử phát triển.

Mỹ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực hiện có hệ thống, được luật hóa. Mỹ thành lập hệ thống quản lý nhân lực nhằm tuyển dụng, giữ chân và tôn vinh lực lượng lao động đẳng cấp thế giới để phục vụ nhân dân Mỹ. Các nhà quản lý nhân sự Mỹ nhận thức: "Muốn quản lý được nhân tài, trước hết nhà quản lý phải là người tài, có những suy nghĩ vượt tầm so với thông thường".

Đất nước Trung Quốc cũng có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài khiến thế giới phải nể phục. Trong 60 năm qua, Trung Quốc từ một quốc gia nghèo đói đã vươn lên trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Đạt được kết quả thần kỳ này nhờ Trung Quốc thực hiện rất nhiều chính sách kinh tế, xã hội trọng điểm, trong đó có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài.

Trung Quốc luôn quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng, thi vào đại học ở Trung Quốc được đánh giá khốc liệt nhất thế giới. Trung Quốc cũng tích cực gửi sinh viên đi học ở các nước tiên tiến, đồng thời có chính sách hấp dẫn để họ trở về nước. Số sinh viên Trung Quốc du học trở về rất đông cho thấy mức độ thành công của chiến lược đào tạo nhân tài ở nước ngoài.

Bên cạnh chiến lược thu hút nhân tài người Hoa ở nước ngoài, Trung Quốc cũng triển khai chiến lược thu hút nhân tài của thế giới đến Trung Quốc để nghiên cứu khoa học. Cuối năm 2008, Trung Quốc đưa ra Kế hoạch 1.000 nhân tài nhằm thu hút các nhà khoa học, nhà kinh tế, chiến lược gia hàng đầu thế giới đã có thành tích nghiên cứu tại các nước Âu - Mỹ và Nhật với chế độ đãi ngộ tuyệt vời.

Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài nước ngoài bài bản, rõ ràng nhất thế giới. Chính phủ Singapore xác định nhân tài là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của đất nước.

Chính phủ Singapore đã tạo dựng niềm tin người tài luôn có vị trí cao với mức lương tương xứng với giá trị chất xám, đồng thời chính phủ sẵn sàng chào đón nhân tài ngoại vào bộ máy nhà nước. Cố Thủ tướng Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ ràng: "Lãnh đạo giỏi là đầu tầu định hướng cho đất nước phát triển. Lãnh đạo dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng".

Sáu là, giáo dục, đào tạo hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng chuyển biến chậm

Chất lượng của hệ thống giáo dục và đào tạo đáng để nghiêm túc suy nghĩ. Năm 2020, Ngân hàng Thế giới xếp hạng 1.000 trường đại học theo ba bảng xếp hạng uy tín Webometrics, QS và THE, Việt Nam đứng cuối cùng, sau Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan.

Tại mỗi bảng QS và THE, Việt Nam chỉ có hai trường góp mặt trong top 1.000 và không có trường nào được xếp hạng theo bảng Webbometrics. Trong khi đó Thái Lan có 8, 5 và 6; Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng khi có đến 40 đại diện ở top 1.000 xếp theo QS, 63 đại diện xếp theo THE và 103 đại diện theo Webometrics.

Hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Giai đoạn 2010-2017, tỷ lệ nghiên cứu trên một triệu dân của Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn mức 212 của Thái Lan và kém xa mức 4.813 của Thuỵ Sĩ, quốc gia đứng đầu danh sách. Trong 10 năm 2008-2018, Việt Nam tăng từ vị trí 64 lên 45 về chỉ số đổi mới toàn cầu nhưng vẫn đứng chót về hầu hết chỉ số khác.

Trong những năm vừa qua, hệ thống giáo dục Việt Nam có bước tiến quan trọng trong đổi mới chương trình, lấy người học làm trung tâm. Đây là bước chuyển theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, phản ánh nỗ lực của Chính phủ thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

Bẩy là, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu phát triển

Năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính chưa đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; trách nhiệm công vụ còn kém, lề lối làm việc trì trệ, chậm đổi mới, đùn đẩy, né tránh.

Một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, coi việc thực thi công vụ, phục vụ nhân dân như là ban phát ân huệ.

Thực hiện đồng đồng bộ, hiệu quả các giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ

Đại hội Đảng lần thứ XIII thổi bùng ngọn lửa khát vọng một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Để hiện thực hóa khát vọng cao quý và vinh quang này trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định, biến đổi khó lường, kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào kinh tế toàn cầu, cơ hội và thách thức đan xen, nhưng khó khăn thách thức nhiều hơn, đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hệ thống chính trị cần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước.

Đảng, Quốc hội và Chính phủ phải khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; ngoại lực là quan trọng, đột phá, thường xuyên; thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển hóa ngoại lực thành nội lực.

Đồng thời, cần phải tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng.

Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nâng cao khả năng chống chịu, sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp, từng ngành, lĩnh vực và toàn nền kinh tế. Chính phủ cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:

Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực, nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia

Hiện nay, ổn định vĩ mô; khu vực doanh nghiệp chủ động, linh hoạt, biết tạo lập và tận dụng cơ hội trong hoạt động sản xuất kinh doanh; lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, chung sức đồng lòng vượt qua khó khăn; năng lực của Chính phủ trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chính sách, Chính phủ chủ động và linh hoạt trong điều hành; cùng với các yếu tố có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau, gồm: vốn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh là các nội lực và ngoại lực của kinh tế nước ta.

Để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, Chính phủ cần sửa đổi bổ sung và hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nội lực và ngoại lực của đất nước.

Nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở tăng cường năng lực, chất lượng phân tích, đánh giá, dự báo các lĩnh vực.

Về thể chế

Chính phủ cần khẩn trương cải cách thể chế, sửa đổi, bổ sung và xóa bỏ những quy định cản trở, không còn phù hợp với quá trình phát triển.

Đặc biệt, Chính phủ cần khẩn trương cải cách nền quản trị quốc gia theo quan điểm chuyên nghiệp hóa phải là linh hồn của những cải cách, các nguyên tắc, chuẩn mực và quy trình mang tính kỹ trị nghiêm ngặt trong việc ban hành chính sách và pháp luật. Các ưu tiên chính sách phải được xác lập trên cơ sở lợi ích quốc gia.

Về kinh tế

Tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, Chính phủ cần quán triệt quan điểm và mục tiêu nâng cao năng lực, tính độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh với các nhóm giải pháp:

(1) Cơ cấu lại nền kinh tế; sử dụng linh hoạt, hợp lý, hiệu quả các công cụ của chính sách tài khóa, tiền tệ; củng cố ổn định vĩ mô, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế với các biến động bên ngoài.

(2) Nâng cao tính độc lập tự chủ, năng lực cạnh tranh của thương mại trong nước và quốc tế; gia tăng sản xuất tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đa dạng hóa đối tác thương mại và thị trường.

(3) Chính phủ cần thực hiện Chiến lược xây dựng các nguồn lực vật chất thiết yếu đảm bảo các cân đối lớn, đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực, an ninh tài chính tiền tệ để tạo dựng độc lập, tự chủ về tiềm lực kinh tế. Đối với an ninh năng lượng, thực hiện chương trình chuyển đổi từ năng lượng sử dụng than, năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng xanh.

(4) Tái cơ cấu, nâng cao năng lực, tính độc lập tự chủ trong đầu tư, cải thiện thể chế đầu tư; đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư; sàng lọc, rà soát kỹ, tăng chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài; giám sát các hoạt động mua bán sáp nhập để doanh nghiệp Việt không bị nước ngoài thôn tính.

(5) Công nghệ luôn là phương thức và công cụ mạnh nhất để xây dựng một xã hội thịnh vượng vượt trội trong mọi thời đại. Chính phủ cần thực thi chính sách phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản trị xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống. Thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ đột phá thúc đẩy áp dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động doanh nghiệp và xã hội.

Để nhanh chóng đưa giải pháp công nghệ tới doanh nghiệp trong nước, Chính phủ cần thực hiện hiệu quả vai trò hỗ trợ liên kết và hướng dẫn kỹ thuật giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài; mời các chuyên gia nước ngoài hỗ trợ giải pháp, xử lý các khó khăn về kỹ thuật cho doanh nghiệp trong nước.

(6) Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và gia công cơ khí để từng bước tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước, từ đó nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp Việt.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ là giải pháp quan trọng để Việt Nam tham gia sâu, trở thành mắt xích không thể thiếu, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hấp thu khoa học, công nghệ, trình độ kỹ thuật, quản trị tiên tiến từ các doanh nghiệp FDI.

Chính phủ cần xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu doanh nghiệp trong và ngoài nước để tạo dựng cơ hội và thực thi hợp tác, liên kết nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng sức mạnh của chuỗi cung ứng trong nước.

Đồng thời, Chính phủ có chính sách ưu đãi, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu gốc, hạn chế nhập nguyên vật liệu về làm gia công, nâng cao năng lực tự chủ.

Về nguồn nhân lực

Con người là chủ thể, trung tâm, động lực thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và nâng cao hiệu quả vận hành thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và bền vững đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp, xu hướng chuyển đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, đảm bảo khả năng cung ứng lao động cho chuyển dịch đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Xây dựng và thực thi chính sách thị trường lao động tích cực, chủ động thực hiện phương châm đào tạo, đào tạo lại, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang làm việc. Đồng thời thực hiện phương châm học suốt đời, học linh hoạt nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng của người lao động đáp ứng đòi hỏi về nâng cao và bồi đắp kỹ năng lao động.

Đổi mới công tác quản lý, sử dụng đánh giá và đào tạo lại đội ngũ nhân lực. Đặc biệt đổi mới căn bản và toàn diện chính sách tuyển dụng, đánh giá, sử dụng và đề bạt đội ngũ nhân lực trong bộ máy nhà nước.

Với vị thế địa kinh tế, Việt Nam đang được xem là điểm đến tiềm năng đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên nhiều lĩnh vực. Để nắm bắt được cơ hội, tận dụng được thời cơ, Việt Nam phải có những đột phá về nguồn nhân lực, hạ tầng và thể chế. Trong đó, quan trọng hơn hết là phát triển nguồn nhân lực.

Hiện nay, do thị trường lao động không có đủ đội ngũ lao động có trình độ cao, Chính phủ, các địa phương, tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp phải tận dụng được nhân lực là chuyên gia nước ngoài để đẩy nhanh việc chuyển giao tri thức công nghệ cũng như nhanh chóng cải thiện năng lực chuyên gia trong nước. Chính phủ có cơ chế gửi lao động có trình độ đi tu nghiệp nâng cao trình độ, kỹ năng từ các nước có công nghệ phát triển để đưa về phục vụ đất nước.

Thu hút và trọng dụng nhân tài

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: "nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài". Việt Nam rất cần một chiến lược bài bản, chuyên nghiệp, cụ thể và đột phá để xây dựng hệ sinh thái vững mạnh nhằm tạo dựng đội ngũ nhân lực, đặc biệt xây dựng hệ sinh thái đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài.

Nghiên cứu và học tập kinh nghiệm quốc tế trong phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và sử dụng hiệu quả nhân tài. Trước mắt có chính sách và giải pháp đặc thù, hiệu quả để giữ chân nhân tài trong nước và thu hút nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm trở về làm việc trong "môi trường chuyên môn trong lành" để họ chuyên tâm phát huy tài năng, trí tuệ.

Nhân rộng chính sách và kinh nghiệm thu hút nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài của các tập đoàn kinh tế như trường hợp của Vingroup. Đặc biệt các tập đoàn kinh tế Nhà nước có tiềm lực tài chính cần tích cực thực hiện chủ trương thu hút nhân tài hàng đầu thế giới.

Chính phủ cần lập danh sách các chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và công bố rộng rãi đến các cơ quan, doanh nghiệp trong nước để thu hút, mời hợp tác trong các lĩnh vực phù hợp.

Thành công trong việc đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài của Mỹ; kinh nghiệm trong ngăn chặn chảy máu chất xám, thu hút nhân tài của Trung Quốc; chiến lược thu hút nhân tài bài bản và chuyên nghiệp của Singapore là những mô hình tốt, những bài học kinh nghiệm hay và quý cho Việt Nam.

Về giáo dục

Hệ thống giáo dục Việt Nam cần hướng đến sự công bằng đối với tất cả học viên; phát huy khả năng sáng tạo, học lý thuyết đi đôi với thực hành để học viên tự tin ứng dụng trong công việc và cuộc sống.

Hệ thống giáo dục phải lấy giáo dục đạo đức và nhân cách làm nền tảng cơ bản, khuyến khích học sinh theo đuổi đam mê và sở thích của mình. Chương trình đào tạo cần biên soạn mang tính quốc tế, để kết quả giáo dục được thế giới thừa nhận.

Đầu tư nâng cao chất lượng, đạo đức nghề nghiệp và công nghệ giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản lý giáo dục phổ thông, đại học và giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp cho đội ngũ giảng viên. Tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia quốc tế tham gia vào việc giảng dạy, nghiên cứu tại các trường đại học trong nước.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng và thực thi chính sách, giải pháp nhằm tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo đại học. Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đầu tư vào hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam; tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế hàng đầu mở cơ sở đào tạo tại Việt Nam.

Về hợp tác quốc tế

Chính phủ cần tăng cường và phát triển hợp tác kinh tế, công nghệ với các nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới và hợp tác Nam - Nam giữa các nước đang phát triển là giải pháp quan trọng, cần thiết đảm bảo độc lập kinh tế.

Chính phủ cần thúc đẩy các hình thức hợp tác phát triển hiệu quả thông qua học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và những bài học thực tiễn có giá trị; phát triển và áp dụng những công nghệ thích hợp giữa các nước đang phát triển; mở rộng thương mại, đầu tư, chia sẻ kiến thức và hợp tác kỹ thuật; đồng thời cung cấp các giải pháp cụ thể với những thách thức phát triển chung của toàn cầu.

Với tiềm năng rất lớn về con người, kinh tế và công nghệ, các nước đang phát triển cần mở rộng, đẩy mạnh hợp tác, trao đổi kinh tế và công nghệ trên nguyên tắc độc lập, tự chủ tập thể. Một khi tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này, các nước đang phát triển sẽ phát triển nhanh hơn, tăng tốc hơn trong xây dựng kinh tế quốc gia độc lập và phát triển thịnh vượng chung.

Thực hiện khát vọng một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh thế giới thay đổi sâu sắc, toàn diện với nhiều bất định; khi chúng ta kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, đặc biệt phát huy tối đa nguồn lực nội sinh, quan trọng nhất là nguồn lực con người để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; khi lãnh đạo các cấp và mỗi người dân luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo, kiên cường vượt khó, luôn đau đáu mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; cùng với sự chỉ đạo  kịp thời của Đảng; điều hành chủ động, linh hoạt, thực hiện đồng thời và hiệu quả các giải pháp của Chính phủ; sự đồng hành trách nhiệm của Quốc hội, Việt Nam sẽ xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đưa đất nước sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới trong vài thập niên tới./.

Nguyễn Bích Lâm
Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê

Nguồn: baochinhphu.vn