Cơ hội vàng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn

09:16:19 | 1/2/2025

Việt Nam đang có cơ hội “nghìn năm có một” để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Năm 2025, dự báo nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực này sẽ tiếp tục tăng mạnh nhờ những cải cách chính sách đột phá, đặc biệt trong lĩnh vực thu hút đầu tư. Để tìm hiểu thêm thông tin, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Bộ trưởng đánh giá thế nào về kết quả thu hút đầu tư nước ngoài năm vừa qua? Chính sách và định hướng trong thời gian tới để nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài là gì?

Trong năm 2024, tổng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đăng ký đạt 38,23 tỷ USD. Số lượt dự án cũng như số vốn tăng thêm, mở rộng đầu tư tăng mạnh với mức tăng 11,2% về số lượt dự án và 50,4% về vốn. Trong đó, nhiều dự đã tăng vốn đầu tư trong các lĩnh vực ưu tiên thu hút như: Amkor (tăng hơn 1 tỷ USD trong dự án nhà máy sản xuất, lắp ráp và thử nghiệm vật liệu, thiết bị bán dẫn tại KCN Bắc Ninh), Casetek Singapore (tăng 299 triệu USD trong dự án công nghệ chính xác tại Nghệ An) và rất nhiều các dự án khác. Bên cạnh đó, cũng có một số dự án tăng vốn lớn trong các lĩnh vực khác nhau như Tập đoàn Phú Mỹ Hưng tăng gần 1 tỷ USD trong dự án Khu đô thị sinh thái Hồng Hạc tại Bắc Ninh.

Bên cạnh điểm sáng về vốn tăng thêm thì vốn đầu tư thực hiện trong năm 2024 cũng là điểm sáng với tổng vốn thực hiện đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ. Đây cũng là mức vốn giải ngân lớn nhất trong năm từ trước đến nay.

Điều này cho thấy các nhà ĐTNN đặt niềm tin mạnh mẽ vào môi trường, chính sách đầu tư của Việt Nam nên đã mở rộng hoạt động đầu tư cũng như quy mô các dự án hiện hữu và tăng cường giải ngân.  Trong bối cảnh nền kinh tế năm 2024 vẫn gặp nhiều khó khăn thì đây là tín hiệu tốt cho thấy khối doanh nghiệp FDI vẫn duy trì tốt hoạt động đầu tư, kinh doanh.

Đặc biệt, cùng với sự tăng trưởng về số lượng thì còn có sự cải thiện đáng kể về chất lượng các dự án đầu tư. Phần lớn các dự án tập trung trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 73,3%). Trong đó, có nhiều dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực điện tử, sản xuất chất bán dẫn, công nghiệp phụ trợ, ứng dụng công nghệ tiên tiến. Đồng thời, thời gian qua các cơ quan của Việt Nam đã tiếp xúc, làm việc với nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu như Qualcomm, Google, Meta, Lam Research, Qorvo, AlChip và các công ty đã có kế hoạch cụ thể chuyển dịch chuỗi cung ứng sang Việt Nam.

Về triển vọng thu hút FDI trong ngắn hạn có các yếu tố thuận lợi sau: Nhà ĐTNN vẫn rất tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam; các đối tác đầu tư lớn như Đài Loan (Trung Quốc), châu Âu, Hoa Kỳ, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) đang có xu hướng mở rộng đầu tư vào Việt Nam.

Theo đánh giá mới nhất của nhiều tổ chức tài chính trong và ngoài nước, triển vọng thu hút vốn FDI của Việt Nam trong thời gian tới sẽ giữ nhịp độ tích cực nhờ 03 yếu tố chính, gồm: (1) Chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất đa quốc gia; (2) tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phục hồi tích cực; (3) kinh tế vĩ mô ổn định.


Lễ công bố Thỏa thuận hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Tập đoàn NVIDIA

Vừa qua, Thỏa thuận hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Tập đoàn NVIDIA đã được ký kết nhằm hợp tác thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển và Trung tâm dữ liệu AI tại Việt Nam. Thỏa thuận là “đòn bẩy” quan trọng giúp Việt Nam có được bước nhảy vọt về công nghệ trong thời gian tới, có hiệu ứng lan tỏa lớn, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư công nghệ cao khác trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực AI, bán dẫn đầu tư vào Việt Nam. Theo đó, NVIDIA cũng đã ký thỏa thuận với một số đối tác về việc dịch chuyển chuỗi sản xuất từ các nước khác sang Việt Nam, với cam kết đầu tư từ 4 - 4,5 tỷ USD trong vòng 4 năm tới.

Do vậy, dự kiến dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng ổn định. Dự báo thu hút FDI trong ngắn hạn vẫn duy trì mức ổn định và tương đương năm 2023, vốn đăng ký đạt khoảng 39 – 40 tỷ USD (năm 2023 đạt 39,4 tỷ USD), vốn thực hiện đạt khoảng trên 23 – 24 tỷ USD (năm 2023 đạt 23,18 tỷ USD).

Bộ trưởng có thể chia sẻ quan điểm và mục tiêu thu hút dòng vốn FDI trong những năm tới đặt trong bối cảnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tăng trưởng xanh?

Việt Nam đang ở thời điểm quan trọng, thời điểm để tăng tốc, bứt phá và về đích để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 đã đề ra. Đồng thời, chuẩn bị kế hoạch cho giai đoạn phát triển mới (2026-2030) với tâm thế sẵn sàng bước vào “Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. Theo đó, Việt Nam đã và đang tập trung thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế

Do đó, nằm trong xu hướng chung của thế giới, Việt Nam sẽ tập trung thu hút đầu tư trong các lĩnh vực chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tăng trưởng xanh. Đây cũng chính là các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư đã được nêu tại Nghị quyết số 50/NQ-TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, Quyết định số 667/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030. Cụ thể:

Thúc đẩy đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao và đổi mới sáng tạo: Ưu tiên thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo, chuỗi cung ứng thông minh, năng lượng sạch, và công nghệ xanh. Việt Nam sẵn sàng hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các lĩnh vực này.

Phát triển kinh tế xanh và bền vững: Với cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy các dự án đầu tư vào công nghiệp xanh, năng lượng sạch và phát triển đô thị bền vững.

Phát triển tài chính số và tài chính xanh: Với sự phát triển của công nghệ tài chính (fintech) và nhu cầu chuyển đổi số, Việt Nam sẽ thúc đẩy các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực tài chính số và tài chính xanh. Thông qua đó, hợp tác để phát triển hệ sinh thái tài chính số và thúc đẩy các sáng kiến tài chính bền vững.

Việt Nam đang ở thời điểm hết sức quan trọng, khi chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như khẳng định của Tổng Bí thư Tô Lâm. Trong năm 2025, chúng ta có những kế hoạch gì để thực hiện “tham vọng” trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng ngành bán dẫn, thưa Bộ trưởng?

Công nghiệp bán dẫn là hạt nhân của ngành công nghiệp điện tử. Đây là ngành công nghiệp lõi, quan trọng cho sự phát triển các ngành công nghiệp khác. Nhiều quốc gia, nền kinh tế trên thế giới đều mong muốn tham gia và có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thực hiện một số hành động cụ thể để phát triển ngành công nghiệp quan trọng này.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 của Việt Nam là xác định phát triển đột phá về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Việt Nam có đủ điều kiện và yếu tố cần thiết để phát triển công nghiệp bán dẫn. Ngày 21/9/2024, Việt Nam đã ban hành Chương trình Phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 và Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030.

Việt Nam đang có cơ hội “nghìn năm có một” để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Để nắm bắt và hiện thực hóa được cơ hội này, các chuyên gia nhận định Việt Nam cần triển khai nhanh trong thời gian không quá 24 tháng và tập trung vào 04 nhiệm vụ cốt lõi: (1) Hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù đảm bảo cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực; (2) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo; (3) Thúc đẩy hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và (4) Thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển hệ sinh thái ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.

Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, đồng thời, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) phối hợp và đã có nhiều hợp tác cụ thể với các doanh nghiệp thành viên Hiệp hội công nghiệp bán dẫn Mỹ (SIA) như NVIDIA, AMD, Cadence, Marvell, ARM, Qorvo, LAM Research... Đây là cơ hội của chúng ta để thúc đẩy hợp tác, phát triển lĩnh vực bán dẫn, giúp Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.

Việt Nam có chủ trương xây dựng hệ sinh thái ngành bán dẫn quốc gia với sự tham gia của nhiều bên khác nhau gồm Nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu (như Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội,…), các doanh nghiệp lớn có nguồn lực và sẵn sàng hợp tác phát triển ngành bán dẫn (như Viettel, FPT, Phenikaa...); đồng thời Việt Nam đã thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) và 03 khu công nghệ cao tại TP.Hồ Chí Minh, Hòa Lạc (Hà Nội) và Đà Nẵng để sẵn sàng đón các nhà đầu tư ngành bán dẫn với cơ chế ưu đãi cao. NIC và các khu công nghệ cao này sẽ là cầu nối quan trọng để hỗ trợ phát triển hệ sinh thái ngành bán dẫn Việt Nam.

Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Ông Sugano Yuichi

Trưởng đại diện Văn phòng JICA tại Việt Nam

Trong năm qua, JICA đã hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Chúng tôi đã ký kết các khoản vay lên tới 678 triệu USD - mức cao nhất trong 6 năm qua, cùng với hợp tác kỹ thuật 35 triệu USD - lớn nhất thế giới trong năm tài khoá này. Viện trợ không hoàn lại đạt 7,5 triệu USD. Các chương trình và dự án tại Việt Nam dựa trên 03 trụ cột: Tăng trưởng chất lượng cao, hỗ trợ đối tượng dễ bị tổn thương và phát triển nguồn nhân lực.

Về các dự án tăng trưởng chất lượng cao: Hiện nay, các dự án tiêu biểu bao gồm: Nhà máy xử lý nước thải Yên Xá (Hà Nội) - một trong những cơ sở lớn nhất tại Việt Nam, tuyến Metro số 1 tại TP.Hồ Chí Minh, giúp giảm ùn tắc giao thông và phát thải carbon, thúc đẩy giao thông đô thị bền vững.

Ngoài ra, JICA cũng triển khai các dự án hỗ trợ đối tượng dễ bị tổn thương, như hợp tác kỹ thuật ứng phó với sạt lở đất tại miền Bắc, đặc biệt ở các vùng bị thiên tai nặng nề, nhằm giúp Việt Nam phục hồi và phát triển bền vững. Chúng tôi còn thực hiện các chương trình hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế, chăm sóc sức khỏe, như: Nâng cấp trang thiết bị y tế tại Bệnh viện K để cải thiện chất lượng điều trị ung thư.

Về phát triển nguồn nhân lực, JICA tiếp tục hợp tác với Đại học Việt - Nhật để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, triển khai chương trình đào tạo lãnh đạo kinh doanh "Keieijuku" tại Viện Phát triển Nhân lực Việt Nam - Nhật Bản (VJCC), cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam học tại Nhật Bản, nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Mặc dù hợp tác đã đạt nhiều thành tựu, việc triển khai một số dự án vẫn gặp phải thách thức do khác biệt về văn hóa và mức độ phát triển giữa các quốc gia. Để vượt qua khó khăn này, JICA đã thực hiện các sáng kiến như cử chuyên gia và tình nguyện viên sang các nước đối tác, đồng thời mời cán bộ chính phủ đối tác sang Nhật Bản học hỏi công nghệ, phong tục và cách thức làm việc, qua đó tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau.

Chính phủ Việt Nam hiện đang nỗ lực hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài, tạo sự yên tâm cho các nhà tài trợ song phương như JICA và các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp đa quốc gia, cũng như các tổ chức phi chính phủ (NGO). JICA cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực xây dựng các quy định pháp lý và chia sẻ nhận thức chung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án, đồng thời mong muốn tiếp tục đóng góp những đề xuất mang tính xây dựng, phát huy kinh nghiệm của mình để hỗ trợ Việt Nam trong các cải cách sắp tới.

Ông Nguyễn Vân

Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ TP.Hà Nội (HANSIBA)

Những năm gần đây, cùng sự phát triển ổn định của nền kinh tế, Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, luôn dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). So với các nước Đông Nam Á khác, nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn Việt Nam bởi ưu thế đến từ thể chế chính trị ổn định, lực lượng lao động dồi dào và lành nghề. Đặc biệt, những năm gần đây, các ngành công nghiệp bán dẫn và công nghệ cao của Việt Nam thu hút nhiều sự quan tâm của thế giới.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mảng công nghiệp hỗ trợ (CNHT), yếu tố cần và đủ là cơ chế chính sách cụ thể cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó là hạ tầng đất đai tiêu chuẩn để doanh nghiệp nước ngoài vào đặt hàng. Đồng thời, doanh nghiệp mong muốn tiếp cận nguồn lực về tài chính, nguồn vốn kinh doanh để mua sắm máy móc thiết bị.

Bởi vậy, các tổ chức ngân hàng cần quan tâm cho các doanh nghiệp ngành CNHT được tiếp cận nguồn vốn tốt, thời hạn cho vay dài, bởi nhiều doanh nghiệp CNHT phải đầu tư 2 - 3 năm, thậm chí 5 - 10 năm mới có lãi. Bên cạnh đó, mở ra thêm các hình thức tín chấp bởi trên thực tế nhiều doanh nghiệp "cởi áo vest ra là hết tiền". Theo tôi, doanh nghiệp có thể thế chấp bằng máy móc thiết bị, nhà xưởng, có thêm hình thức bảo lãnh 3 bên. Quỹ Đầu tư phát triển Hà Nội và NHNN Việt Nam chi nhánh Hà Nội có thể xem xét tài trợ cho vay các dự án nhà ở công nhân, nhà ở xã hội, đặc biệt sau Covid-19 nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh sản xuất 3 tại chỗ.

Vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Đây không chỉ là một công trình giao thông trọng điểm mà còn là một cú hích lớn đối với nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp liên quan. Dự án này không chỉ giúp hiện đại hóa hệ thống giao thông mà còn mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp CNHT, đặc biệt trong các lĩnh vực cơ khí, chế tạo, tự động hóa, sản xuất thép, vật liệu xây dựng và linh, phụ kiện như việc sản xuất và cung cấp các vật liệu: Bê tông, thép, các cấu kiện hạ tầng như cầu, cống, đường hầm,… bởi đây là những yếu tố không thể thiếu để hoàn thành dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam.

Bên cạnh đó, một trong những cơ hội lớn khác là việc chuyển giao và làm chủ công nghệ trong ngành đường sắt. Các doanh nghiệp CNHT sẽ có cơ hội tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ các đối tác quốc tế, đặc biệt là các quốc gia có kinh nghiệm phát triển đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc,... HANSIBA và các thành viên của hiệp hội đã và đang kết nối với các đối tác quốc tế để hợp tác trong việc sản xuất, chuyển giao công nghệ và cung cấp sản phẩm cho các dự án công nghiệp liên quan như ngành hàng không, vũ trụ và tàu cao tốc.

Trong thời gian tới, chúng tôi hy vọng rằng các chương trình làm việc trực tiếp giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức, hiệp hội, đặc biệt là HANSIBA, sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước nắm bắt được thông tin và có cơ hội hợp tác với các đơn vị tổng thầu trong và ngoài nước.

Phó Giáo sư Funabashi Gaku

Đại học Quốc tế Nhật Bản (IUJ)

Để Việt Nam có thể tránh được bẫy thu nhập trung bình và hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao, phát triển hiện đại vào năm 2045, việc nâng cao năng suất lao động và tạo ra giá trị gia tăng là yếu tố vô cùng quan trọng. Việt Nam cần phải chuyển đổi từ mô hình dựa vào chi phí lao động giá rẻ, tiếp nhận công nghệ và cơ sở hạ tầng từ nước ngoài, cùng với việc phát triển ngành công nghiệp thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sang chiến lược đổi mới sáng tạo dựa vào các nguồn lực trong nước.

Phương châm phát triển dựa vào nội lực và hội nhập quốc tế của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, nếu quá phụ thuộc vào FDI để phát triển ngành công nghiệp, Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc chuyển mình từ một quốc gia có thu nhập trung bình thành quốc gia có thu nhập cao. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực phát triển công nghệ riêng, xác định thị trường mục tiêu và xây dựng một hệ thống công nghiệp dựa trên nền tảng công nghiệp lõi, đồng thời đổi mới một cách có chiến lược và từng bước.

Lấy ngành công nghiệp bán dẫn làm ví dụ, với mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư vào năm 2030 của Chính phủ, Việt Nam có thể học hỏi những bài học hữu ích và kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Phát triển công nghệ có thể bắt đầu từ việc bắt chước những công nghệ hiện có, nhưng quan trọng hơn là phải có một quá trình nghiên cứu, phát triển và đầu tư liên tục. Cần nhấn mạnh rằng, việc xác định thị trường rõ ràng và xây dựng chiến lược phát triển dựa trên các nguồn lực và thế mạnh sẵn có là điều rất cần thiết, và điều này cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan Chính phủ.

Từ kinh nghiệm trong ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản, việc thu thập thông tin từ các bên liên quan, phản hồi về cơ sở sản xuất, thử nghiệm công nghệ, chia sẻ thông tin giữa các bộ phận như sản xuất, nghiên cứu và phát triển, marketing là rất quan trọng. Cách quản lý này giúp các công ty tích lũy tài nguyên hữu hình và vô hình, kết hợp với các nguồn lực khác để thúc đẩy sự phát triển chung của ngành công nghiệp.

Về vấn đề chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, Việt Nam cần phải nhìn nhận thực tế rằng những gì có thể chuyển giao từ Nhật Bản và các quốc gia khác sẽ chỉ có giới hạn. Tuy nhiên, Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài như một bước đầu tiên, sau đó, các công ty tư nhân – những tác nhân chính thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp quốc gia – cần phải tự đổi mới để đạt được một vị thế tốt hơn.

Các bộ, ban, ngành và chính quyền địa phương của Việt Nam đang hỗ trợ các công ty tư nhân quy mô nhỏ. Mặc dù những công ty này chưa phải là một phần chính thức của ngành công nghiệp quốc gia, nhưng đều có tiềm năng lớn và có thể đóng góp đáng kể vào sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.

Ông Tony Meng

Giám đốc Chargecore Global

Với tầm nhìn chiến lược và quyết tâm mạnh mẽ từ lãnh đạo đất nước, đặc biệt là dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam đang tạo ra động lực to lớn để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy nhanh quá trình hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Chính phủ không chỉ tập trung vào việc cải thiện môi trường pháp lý mà còn tích cực thúc đẩy các sáng kiến như chuyển đổi số, phát triển năng lượng tái tạo và xây dựng nền kinh tế xanh - những lĩnh vực mà Chargecore Global có thế mạnh và sẵn sàng đóng góp.

Chargecore Global, đơn vị dẫn đầu trong các giải pháp sạc xe điện (EV), đang đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi sang năng lượng và giao thông bền vững. Là một trong những đối tác chủ chốt của VinFast và VGreen, Chargecore Global hiện đang chịu trách nhiệm cung cấp phần lớn các trạm sạc EV trên toàn quốc. Công nghệ và hạ tầng của chúng tôi không chỉ thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái xe điện tại Việt Nam mà còn góp phần đưa quốc gia tiến gần hơn đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0.

Trong giai đoạn mới, chúng tôi nhận thấy cơ hội to lớn từ chiến lược phát triển giao thông xanh và năng lượng tái tạo của Việt Nam. Việc mở rộng nhanh chóng hệ thống trạm sạc EV là yếu tố quan trọng khi Việt Nam đang đặt mục tiêu trở thành quốc gia dẫn đầu trong khu vực về sản xuất và sử dụng xe điện. Chargecore Global cam kết mở rộng mạng lưới sạc, đảm bảo khả năng tiếp cận rộng rãi và cung cấp các giải pháp tiên tiến nhằm nâng cao hiệu suất và hiệu quả vận hành.

Nhận thức được sự tập trung của Chính phủ vào việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Chargecore Global cũng đang đầu tư vào việc phát triển tài năng, hợp tác chặt chẽ với các cơ sở giáo dục để đào tạo thế hệ kỹ sư và chuyên gia công nghệ tương lai. Điều này phù hợp với mục tiêu lớn hơn của Việt Nam trong việc xây dựng một nền kinh tế sáng tạo, vững mạnh và có khả năng dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ xanh.

Với sự hỗ trợ kiên định từ Chính phủ và sự hợp tác từ cộng đồng doanh nghiệp, chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam đang bước vào một thời kỳ tăng trưởng kinh tế và công nghệ. Chargecore Global cam kết là đối tác lâu dài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và góp phần đưa Việt Nam trở thành nhân tố quan trọng trong lĩnh vực năng lượng xanh trên bản đồ kinh tế khu vực và toàn cầu.

Ông Jonas Eichhorst

Tổng Giám đốc Timo

Cuối năm 2024, ngành Ngân hàng đã đạt được dấu mốc quan trọng trong chuyển đổi số. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), kể từ ngày 01/01/2025, để thực hiện các giao dịch trực tuyến khách hàng buộc phải hoàn tất xác thực sinh trắc học. Đây chính là tiền đề vững chắc, tạo bệ phóng cho thanh toán không dùng tiền mặt và các sản phẩm, dịch vụ tài chính trên kênh số vào năm 2025.

Chắc chắn rằng việc áp dụng xác thực sinh trắc học để đối chiếu dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư sẽ giúp khẳng định chính chủ của khách hàng khi mở tài khoản, mở thẻ hoặc ví điện tử. Giải pháp này góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu tình trạng sử dụng tài khoản không chính chủ trong các hành vi lừa đảo.

Theo thống kê mới nhất từ Vụ Thanh toán, NHNN, tính đến giữa tháng 12/2024, đã có 66,6 triệu khách hàng cá nhân được đối chiếu sinh trắc học. Sau hơn 03 tháng triển khai, số vụ lừa đảo đã giảm 50% và số tài khoản nhận tiền lừa đảo giảm trên 70% so với trung bình 7 tháng đầu năm 2024. Điều này mang lại tác động tích cực trong việc xây dựng niềm tin của khách hàng, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực ngân hàng số, ví điện tử và các giải pháp tài chính số.

Năm 2025 sẽ đánh dấu cột mốc 10 năm Timo đồng hành cùng khách hàng trên con đường phát triển bền vững tại Việt Nam. Chúng tôi luôn lấy khách hàng làm trung tâm, tích hợp chặt chẽ giữa công nghệ và dịch vụ tài chính để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong điều kiện kinh tế số đang phát triển mạnh tại Việt Nam.

Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ và đầy năng động. Với ứng dụng được thiết kế trực quan và thân thiện, Timo mang lại trải nghiệm quản lý tài chính cá nhân đơn giản, hiệu quả và thuận tiện. Bên cạnh đó, Timo xây dựng niềm tin bền vững với khách hàng bằng sự minh bạch, không đặt ra các loại phí ẩn.

Ngoài ra, chúng tôi còn hướng đến việc triển khai các giải pháp tài chính có tính kết nối cộng đồng, hỗ trợ quản lý tài chính gia đình, nhóm bạn bè hoặc các nhóm xã hội khác. Không chỉ bó gọn trong giao dịch ngân hàng, Timo tạo dựng sự gắn kết mạnh mẽ với khách hàng thông qua các hoạt động truyền cảm hứng và mang lại giá trị thiết thực trong cuộc sống hàng ngày.

Thu Hà (Vietnam Business Forum)