Doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ cần chuẩn bị sẵn sàng cho cơ hội lớn

10:35:55 | 11/4/2025

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) được coi là ngành xương sống của nền công nghiệp quốc gia, thông qua việc cung cấp linh kiện, phụ tùng và các quy trình kỹ thuật, đặc biệt là trong giai đoạn Việt Nam đang chuẩn bị triển khai 2 dự án đường sắt vô cùng quan trọng. Phóng viên Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp đã có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thành phố Hà Nội (HANSIBA) xung quanh vấn đề này.

Ông có thể cho biết thực trạng của ngành CNHT hiện nay?

Hơn 20 năm trước, khi các doanh nghiệp FDI mới vào Việt Nam, họ rất khó để có thể tìm được một nhà sản xuất linh kiện, chỉ đơn giản như con ốc vít cũng không đáp ứng được yêu cầu của họ. Tuy nhiên, sau nhiều năm phát triển và nhờ vào sự tham gia của các chương trình cải tiến năng lực sản xuất, ngành CNHT đã có sự thay đổi rõ rệt. Hiện nay, Việt Nam có hơn 5.000 doanh nghiệp CNHT. Các doanh nghiệp đang ngày càng tích cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo, trong đó đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo như Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Thành Công, Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát..., tạo nền tảng cho ngành CNHT, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm như các loại dây cáp điện, hộp số, các linh kiện nhựa… đã xuất khẩu đi một số thị trường lớn trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận, số lượng doanh nghiệp CNHT đáp ứng yêu cầu cao chưa nhiều; ngành CNHT vẫn đang nằm ở phân khúc giá trị gia tăng rất thấp trong chuỗi cung ứng. Các sản phẩm CNHT tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực như dệt may, da giày, chế biến gỗ và cơ khí, còn những sản phẩm CNHT mang hàm lượng công nghệ cao, tinh vi, phức tạp vẫn do các doanh nghiệp FDI nắm giữ. Theo thống kê, số lượng doanh nghiệp tham gia làm nhà cung ứng cấp một cho các tập đoàn đa quốc gia là khoảng 100 doanh nghiệp; cung ứng cấp hai, cấp ba là khoảng 700 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phần nghiên cứu phát triển (R&D) tại các doanh nghiệp CNHT cũng đã được quan tâm nhưng chưa đúng mức; nguồn nhân lực cho CNHT còn thiếu...

Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam, dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng là những những dự án chiến lược phát triển hạ tầng giao thông của quốc gia, hứa hẹn tạo cú hích phát triển kinh tế-xã hội. Đây cũng được coi là cơ hội vàng cho các doanh nghiệp CNHT tại Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về cơ hội này?

Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam và dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng là những  dự án đặc biệt quan trọng của đất nước, với tổng mức đầu tư rất lớn và hội tụ hàm lượng khoa học-công nghệ cao, tác động toàn diện trên tất cả lĩnh vực kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh. Dự án với mục tiêu kết nối các khu vực kinh tế trọng điểm, giảm thời gian di chuyển và tăng cường năng lực vận tải, tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững. 

Việc đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam với tổng mức đầu tư 67,34 tỷ USD, và tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng  với tổng mức khoảng 8,37 tỷ USD sẽ tạo ra thị trường xây dựng giá trị hàng chục tỷ USD. Như vậy, 2 dự án này không chỉ giúp hiện đại hóa hệ thống giao thông mà còn mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp CNHT, đặc biệt trong các lĩnh vực cơ khí, chế tạo, tự động hóa, sản xuất thép, vật liệu xây dựng và linh, phụ kiện, như việc sản xuất và cung cấp các vật liệu bê tông, các cấu kiện hạ tầng như cầu, cống, đường hầm... Đặc biệt, ngành thép và cơ khí chế tạo Việt Nam hoàn toàn có thể tự sản xuất nhiều thiết bị cơ khí quan trọng của ngành đường sắt. Trong đó Hòa Phát có thể sản xuất hàng trăm ngàn ray thép đủ chất lượng mỗi năm.

Bên cạnh đó, một trong những cơ hội lớn khác là việc chuyển giao và làm chủ công nghệ trong ngành đường sắt. Các doanh nghiệp CNHT sẽ có cơ hội tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ các đối tác quốc tế, đặc biệt là các quốc gia có kinh nghiệm phát triển đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc...

Ngoài việc nắm bắt, làm chủ toàn bộ công tác vận hành, bảo trì và từng bước sản xuất một số linh kiện, phụ tùng thay thế đối với đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, 2 dự án đường sắt này cũng sẽ là cơ hội không thể tốt hơn cho ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam có bước chuyển mình mạnh mẽ.

Cơ hội thì rất lớn, nhưng các doanh nghiệp CNHT trong nước có nắm bắt và đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của dự án không, thưa ông?

Chính phủ và Bộ Xây dựng đã khẳng định sự quan trọng của việc huy động tất cả các nguồn lực trong nước, bao gồm doanh nghiệp Việt Nam, trong việc triển khai 2 siêu dự án đường sắt này. Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp là việc đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và tiêu chuẩn quốc tế trong sản xuất các linh kiện, thiết bị cho đường sắt cao tốc. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và đào tạo nhân lực.

Ngoài ra, việc hợp tác với các đối tác quốc tế cũng sẽ có những thách thức về chuyển giao công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ và quản lý chuỗi cung ứng…

Để doanh nghiệp CNHT trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của 2 dự án đường sắt này, Chính phủ, bộ, ngành Trung ương cần có những chương trình làm việc trực tiếp với các tổ chức hội, hiệp hội doanh nghiệp... Các cuộc làm việc này nhằm nắm bắt về năng lực sản xuất, cung ứng thiết bị, sản phẩm có thể đáp ứng, hợp tác với các đơn vị tổng thầu dự án trong nước và quốc tế được tham gia vào dự án trước thời điểm khởi công vào năm 2027. Từ đó có cơ chế, chính sách đặc thù về tài chính, đặc biệt là nguồn vốn, công nghệ để “đặt hàng” và xây dựng “bộ tiêu chí” để doanh nghiệp trong nước có thể tham gia đầu tư, cung ứng sản phẩm cụ thể.

Đối với các doanh nghiệp, cần bám sát, nắm bắt kịp thời thông tin liên quan đến dự án, tiếp tục đẩy mạnh, cải tiến năng lực sản xuất, hợp tác cùng các đối tác quốc tế đến từ những quốc gia phát triển, đã đầu tư khai thác đường sắt tốc độ cao để có thể nâng cao công nghệ và chất lượng sản phẩm…

Là ngành xương sống của nền công nghiệp quốc gia, theo ông, cần làm gì để ngành CNHT phát triển, đóng góp tích cực cho đất nước trong kỷ nguyên vươn mình thời gian tới?

Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, công nghiệp quốc gia không thể tồn tại và phát triển được nếu không có ngành CNHT phát triển, bởi CNHT quyết định giá thành sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Ngành công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng trong nhiều năm qua đã nhận được sự quan tâm lớn từ Đảng và Nhà nước bởi vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, một số cơ chế chính sách vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của doanh nghiệp, do một số khó khăn về thủ tục, nhất là các ưu đãi liên quan đến lãi suất, tín dụng. Để vay được vốn, doanh nghiệp cần có rất nhiều điều kiện, trong khi phần lớn doanh nghiệp CNHT có quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn chế, không có hoặc rất ít tài sản bảo đảm, mà nhu cầu vay vốn lại lớn so với quy mô tài sản của doanh nghiệp. 

Để phát triển CNHT thời gian tới, vấn đề quan trọng đầu tiên là kiến nghị Chính phủ sớm xây dựng Luật CNHT và trình Quốc hội ban hành. Đây sẽ là nền tảng quan trọng thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công hơn. Các doanh nghiệp CNHT cũng kiến nghị Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo quốc gia liên ngành về phát triển công nghiệp, trong đó có một Phó thủ tướng chuyên trách để khi doanh nghiệp có đề xuất, kiến nghị sẽ được giải quyết kịp thời.

Đồng thời, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để phát triển các DN thuộc ngành CNHT, trong đó có lộ trình đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 đạt tỷ trọng 5-10% trên tổng số DN Việt Nam. Để đạt được điều này, cần có giải pháp cấp thiết, đặc thù về vốn (lãi suất và thời gian vay, hạn mức vay, tài sản thế chấp...); quy hoạch, phát triển các khu CNHT gắn liền với chuỗi cung ứng của các tập đoàn quốc tế cũng như các doanh nghiệp trong nước với chi phí, chính sách hợp lý. Riêng vấn đề về nguồn vốn, các tổ chức tín dụng nên tạo điểu kiện cho các doanh nghiệp CNHT được tiếp cận nguồn vốn tốt, thời hạn cho vay dài, bởi nhiều DN CNHT phải đầu tư 2-3 năm, thậm chí 5-10 năm mới có lãi.

Trân trọng cảm ơn ông!

Lan Anh (Vietnam Business Forum)