10:11:14 | 8/12/2025
Ngày 01/01/2026, Luật Công nghiệp công nghệ số (71/2025/QH15) sẽ chính thức có hiệu lực, lần đầu tiên tạo ra một khung pháp lý toàn diện cho phát triển công nghiệp công nghệ số tại Việt Nam, từ sản phẩm – dịch vụ, hạ tầng, nhân lực đến R&D. Tuy nhiên, để luật thực sự phát huy tác dụng, cần có cơ chế đo lường và đánh giá tác động thường xuyên. Việc lượng hóa kết quả giúp Nhà nước và doanh nghiệp theo dõi tiến độ, kịp thời điều chỉnh chính sách và nâng cao hiệu quả thực thi.

Hệ thống dashboard phân tích dữ liệu hỗ trợ công tác đo lường và đánh giá hiệu quả thực thi Luật Công nghiệp công nghệ số.
Đo lường – nền tảng để theo dõi và điều chỉnh chính sách
Đo lường hiệu quả và đánh giá tác động có vai trò then chốt trong quản trị chính sách công nghệ số. Đây là công cụ để xác định mức độ thực hiện các mục tiêu mà Luật Công nghiệp công nghệ số đặt ra, như nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm số, mở rộng hạ tầng dữ liệu hay phát triển nhân lực chất lượng cao. Đo lường cũng giúp phát hiện kịp thời những hạn chế trong triển khai, đặc biệt khi các ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai không đến đúng đối tượng hoặc còn vướng thủ tục.
Bên cạnh đó, các chỉ số đánh giá công khai còn củng cố niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư quốc tế. Khi Việt Nam minh bạch hóa kết quả thực thi, nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để đưa ra quyết định dài hạn.
Luật quy định Nhà nước có trách nhiệm thống kê, đo lường và báo cáo (Điều 5), làm cơ sở xây dựng hệ thống chỉ số theo dõi như số lượng doanh nghiệp công nghệ số mới, tỷ lệ doanh thu “Make in Vietnam”, đầu tư vào hạ tầng dữ liệu, quy mô thị trường AI hoặc số lượng nhân lực được đào tạo.
Hệ thống thông tin quốc gia và Cơ sở dữ liệu công nghiệp công nghệ số (Điều 34) được thiết lập nhằm tổng hợp, phân tích và công khai thông tin. Đây không chỉ là hạ tầng kỹ thuật mà còn là công cụ minh bạch để cơ quan quản lý, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và xã hội cùng theo dõi.
Đánh giá tác động và trách nhiệm dữ liệu của các chủ thể
Đánh giá tác động của Luật Công nghiệp công nghệ số cần bao trùm cả kinh tế, xã hội và công nghệ. Về kinh tế, các chỉ số gồm tăng trưởng ngành, đóng góp vào GDP, thu hút FDI và số việc làm mới. Về xã hội, cần đo lường tác động đến nguồn nhân lực, kỹ năng số và mức độ lan tỏa đào tạo cộng đồng. Về công nghệ, đánh giá năng lực R&D, bằng sáng chế, sáng kiến và khả năng ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực khác như nông nghiệp hay y tế.
Những chỉ số này là cơ sở quan trọng để so sánh với mục tiêu chiến lược quốc gia, như Chiến lược hạ tầng số hay Chiến lược AI đến năm 2030.
Theo Điều 35, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đều có trách nhiệm cung cấp và cập nhật dữ liệu vào cơ sở dữ liệu công nghiệp công nghệ số. Doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu và cơ sở đào tạo phải cung cấp thông tin định kỳ hằng quý hoặc đột xuất, bảo đảm dữ liệu đầy đủ, chính xác, kịp thời. Việc thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ dữ liệu giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận ưu đãi và chính sách hỗ trợ; ngược lại, thiếu minh bạch sẽ làm giảm khả năng thụ hưởng chính sách.
Minh bạch và giải trình là nguyên tắc xuyên suốt. Dữ liệu trong hệ thống phải được công khai để xã hội giám sát, với cơ chế phản hồi nhanh và dashboard trực tuyến. Đồng thời, sự tham gia của các tổ chức nghiên cứu độc lập, viện trường và hiệp hội nghề nghiệp giúp tăng tính khách quan, hạn chế tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
Luật Công nghiệp công nghệ số không chỉ thúc đẩy sự phát triển của ngành, mà còn đặt nền tảng cho hệ thống đánh giá tác động hiện đại và minh bạch. Khi các chủ thể thực hiện nghiêm túc việc báo cáo và chuẩn hóa dữ liệu, kết quả triển khai sẽ rõ ràng và thuyết phục hơn, góp phần củng cố niềm tin xã hội, thu hút đầu tư và tạo động lực để Việt Nam trở thành trung tâm công nghệ số của khu vực.
Giang Tú (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI