Nhật Bản là thị trường khách du lịch quan trọng của Việt Nam

15:15:19 | 4/3/2014

Nhằm tìm hiểu về tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam và quan hệ hợp tác với Nhật Bản trong phát triển du lịch, phóng viên Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn Tổng cục trưởng Tổng cục du lịch Việt Nam – ông Nguyễn Văn Tuấn. Đức Bình thực hiện.

Xin ông cho biết khái quát về năng lực và thành tựu đạt được của ngành du lịch trong thời gian vừa qua? Đặc biệt là phát triển thị trường Nhật Bản?

Hơn 20 năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tạo ra hàng chục vạn việc làm cho xã hội, tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần giới thiệu hình ảnh đất nước con người Việt Nam năng động, nhiệt tình, thân thiện, mến khách với bạn bè quốc tế.

Hệ thống cơ sở vật chất dịch vụ du lịch đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng với hơn 13.700 cơ sở lưu trú và gần 300 ngàn buồng, trong đó số khách sạn từ 3 đến 5 sao đến nay đã đạt 589 khách sạn với 62.029 buồng; hơn 1.200 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, hàng ngàn doanh nghiệp lữ hành nội địa, có khả năng đón và phục vụ hàng chục triệu lượt khách du lịch quốc tế và nội địa, đáp ứng được nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của du khách. Trên cả nước đang từng bước hình thành những trung tâm du lịch trọng điểm trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành.

Trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng từ năm 2009 đến nay, ngành Du lịch Việt Nam đã duy trì được sự phục hồi và tăng trưởng ổn định. Năm 2012, trong bối cảnh quốc tế và khu vực chịu tác động tiêu cực từ suy thoái và khủng hoảng, ngành du lịch Việt Nam vẫn đón được 6,85 triệu lượt khách quốc tế, 32,5 triệu lượt khách du lịch nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt 160.000 tỷ đồng. Năm 2013, với kết quả đón và phục vụ 7,5 triệu lượt khách quốc tế, 35 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch ước đạt 200 ngàn tỉ đồng, ngành du lịch Việt Nam đã đạt mục tiêu đề ra cho năm 2015 trước 2 năm. Đây là thành tích đáng ghi nhận của ngành du lịch trong đó có vai trò của cộng đồng doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định. Chính sự đầu tư phát triển xây dựng thương hiệu, duy trì chất lượng dịch vụ của hệ thống doanh nghiệp du lịch đang hoạt động trên các loại hình dịch vụ khác nhau đã góp phần định vị điểm đến của từng địa phương, từng vùng và thương hiệu du lịch quốc gia, nâng tầm cạnh tranh của ngành du lịch.

Thời gian qua du lịch Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong việc phát triển thị trường khách du lịch Nhật Bản, đặc biệt sau khi việc hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa Việt Nam và Nhật Bản được thúc đẩy mạnh mẽ từ năm 2005, hai nước ra Tuyên bố chung về hợp tác du lịch và thành lập Ủy ban hợp tác Du lịch Việt Nam – Nhật Bản.

Trong giai đoạn từ năm 2003-2012, du khách Nhật Bản đến Việt Nam đã tăng 2,75 lần, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 12%/năm. Năm 2012 đã có gần 580.000 lượt khách Nhật Bản đến Việt Nam, tăng 19,7% so với năm 2011, chiếm 8,42% tổng số lượt khách quốc tế đến Việt Nam, là thị trường đứng thứ ba trong số các quốc gia có khách quốc tế đến Việt Nam nhiều nhất (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). Trong 10 tháng năm 2013, đã có gần 500.000 lượt khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong giai đoạn 2006-2012, khách du lịch Việt Nam đến Nhật Bản tăng 2,2 lần, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 14%/năm. Năm 2012, khách du lịch Việt Nam đến Nhật Bản đạt hơn 55.000 lượt, tăng 34,7% so với năm 2011. Riêng trong 8 tháng đầu năm 2013 đã có 53.000 lượt khách Việt Nam đến Nhật Bản, tăng 52% so với cùng kỳ 2012 (gần bằng cả năm 2012).

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi khách, từ năm 2004 Việt Nam đã miễn thị thực nhập cảnh cho du khách Nhật Bản đến Việt Nam. Từ tháng 7/2013 Nhật Bản đã áp dụng cấp thị thực nhập cảnh nhiều lần cho công dân Việt Nam. Hiện có 4 thành phố lớn của Nhật Bản là Tokyo, Nagoya, Osaka, Fukuoka có đường bay thẳng tới Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Các chương trình hành động và định hướng chiến lược của Du lịch Việt Nam trong thời gian tới để đưa hình ảnh “Việt Nam-Vẻ đẹp bất tận” đến với du khách?

Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đề ra 7 nhóm giải pháp rất cơ bản, đó là Phát triển sản phẩm; Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; Phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu du lịch; Đầu tư và chính sách phát triển du lịch; Hợp tác quốc tế và Quản lý nhà nước về du lịch. Trong 7 nhóm giải pháp trên, giải pháp Xây dựng và phát triển sản phẩm chất lượng cao, duy trì chất lượng sản phẩm và quản lý điểm đến là yếu tố quan trọng hàng đầu nhằm đưa hình ảnh “Việt Nam-Vẻ đẹp bất tận” đến với du khách đồng thời góp phần quan trọng trong việc tạo ra uy tín và thương hiệu cho Du lịch Việt Nam.

Từ năm 2012, du lịch Việt Nam đã chính thức triển khai xây dựng và xúc tiến thương hiệu với khẩu hiệu “Việt Nam – Vẻ đẹp bất tận” và hiện nay với sự tư vấn của các chuyên gia du lịch EU, “Kế hoạch Marketing du lịch Việt Nam đến năm 2015” và “Chiến lược Marketing du lịch Việt Nam đến năm 2020” đã được xây dựng và chờ phê duyệt, hy vọng rằng đến năm 2020 du lịch Việt Nam sẽ khẳng định được thương hiệu riêng của mình.

Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020 tầm nhìn 2030 đã xác định Nhật Bản là thị trường trọng điểm, với tham vọng đón 1 triệu lượt du khách Nhật Bản vào năm 2015, vậy ngành du lịch Việt Nam đã và đang có những đầu tư và chính sách gì để đáp ứng nhu cầu của thị trường này?

Mục tiêu của ngành du lịch là sẽ thu hút khoảng 1 triệu khách Nhật vào năm 2015. Việt Nam luôn xác định Nhật Bản là một trong những thị trường khách quan trọng nhất của Việt Nam. Năm 2012, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam đạt 570 ngàn lượt khách, đứng thứ 3 trong số các quốc gia có lượng khách đến Việt Nam nhiều nhất (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). Để đạt được mục tiêu này Ngành du lịch Việt Nam cần làm tốt hai nhóm công việc:

Thứ nhất là phục vụ thật tốt những khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam để từ đó chính những du khách này sẽ góp phần giới thiệu cho bạn bè, gia đình và người thân sẽ đến Việt Nam trong thời gian tới;

Thứ hai là tăng cường đẩy mạnh xúc tiến du lịch tại thị trường Nhật Bản cả về qui mô và hình thức. Để làm được việc đó, cần tập trung tăng cường hợp tác du lịch giữa cơ quan du lịch quốc gia, Hiệp hội Du lịch và các doanh nghiệp du lịch của hai nước với nhau; tổ chức các hoạt động xúc tiến tại Nhật Bản thông qua các hội chợ du lịch quốc tế tại Nhật Bản; tổ chức các hoạt động truyền thông giới thiệu về du lịch Việt Nam trên các báo chí, truyền hình Nhật Bản; xuất bản các ấn phẩm du lịch Việt Nam bằng tiếng Nhật; tăng cường cung cấp thông tin bằng tiếng Nhật thông qua trang web của Tổng cục Du lịch. Cụ thể là Tổng cục Du lịch Việt Nam đã tham gia Hội chợ JATA của Hiệp hội Lữ hành Nhật Bản, tổ chức hoạt động xúc tiến du lịch biển, resort miền Trung đến với du khách Nhật Bản vào tháng 9/2013 và tham gia họp nhóm công tác song phương với Cục Du lịch Nhật Bản vào tháng 10/2013. Ngoài ra, trong thời gian tới Tổng cục Du lịch cũng mong muốn mở Văn phòng Xúc tiến Du lịch Việt Nam tại Nhật Bản.

Để duy trì và giữ vững tốc độ tăng trưởng cũng như để du lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành công nghiệp không khói thì vai trò Nhà nước và sự phối hợp giữa các bộ, ngành được thể hiện như thế nào? Ông có nhận định gì về vai trò này trong thời gian tới?

Hơn bất kì ngành kinh tế nào khác, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên vùng, liên ngành rất cao. Sản phẩm du lịch được hình thành bởi các yếu tố đầu vào của nhiều ngành khác nên sự liên kết, phối hợp của các ngành với các lĩnh vực khác cần phải duy trì thường xuyên, chặt chẽ. Tuy nhiên hiện nay sự phối hợp giữa các Bộ, ngành chưa thực sự phát huy, kết nối chặt chẽ.

Chính phủ luôn dành sự quan tâm, ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi để du lịch phát triển. Sắp tới, Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết về một số giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch giai đoạn 2013-2020 đề ra một số chính sách và giải pháp có tính đột phá để tháo gỡ những rào cản và khó khăn đối với sự phát triển của ngành du lịch cũng như của các doanh nghiệp du lịch. Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch sẽ xem xét để tiếp tục thực hiện chỉ đạo thực hiện những giải pháp phối hợp liên ngành, liên vùng có hiệu quả hơn, đồng thời tập trung chấn chỉnh khắc phục những hạn chế, yếu kém đã bộc lộ trong thời gian qua.

Các Bộ, ngành tăng cường phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hóa, Thể thao Du lịch hơn nữa, làm cho liên kết thực sự có chiều sâu và hiệu quả, kịp thời đề xuất Chính phủ những chính sách, giải pháp, tháo gỡ khó khăn cho danh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn.

Để vai trò của các Bộ, ban ngành trong thời gian tới được giữ vững và phát huy, cần có những định hướng như: Đẩy mạnh liên kết giữa các ngành và địa phương; tăng cường vai trò của Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát huy vai trò là cơ quan chủ trì; Tổng cục Du lịch nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý; các địa phương nâng cao vai trò và trách trách nhiệm trong việc quản lý, bảo tồn giá trị của du lịch.