10:37:22 | 9/5/2014
Việt Nam là quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp, trong đó chè là một trong những sản phẩm có ưu thế lớn. Song trong thời gian dài vừa qua, ngành chè vẫn chưa có được cơ cấu tốt, chưa có chiến lược rõ ràng và thống nhất giữa khối công – tư để phát triển. Phải làm gì để cải thiện chất lượng và sự bền vững của ngành chè là nội dung chính buổi hội thảo do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Công ty Unilever Việt Nam cùng một số đơn vị tư vấn quốc tế tổ chức vừa qua tại Hà Nội.
Chè chất lượng cao chưa được chú trọng
Theo số liệu thống kê của Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, năm 2013, diện tích chè cả nước là 135,3 nghìn ha, trong đó chè làm nguyên liệu cho chế biến là 128,2 nghìn ha, chè tươi hái lá 7,2 nghìn ha. Năng suất chè búp tươi đạt 79,5 tạ/ha, tương đương năm 2012. Sản lượng chè búp tươi đạt 909,7 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu đạt 222 triệu USD. Trong 3 tháng đầu năm 2014, Việt Nam xuất khẩu 24 nghìn tấn chè, kim ngạch xuất khẩu đạt 37 triệu USD. Cũng theo Cục Trồng trọt, giai đoạn 2005-2013, 12 giống chè mới đã được công nhận, phục vụ sản xuất, như: LDP1, PH8, PH9, PH10, PH11, PH12, PH12, Phúc Vân Tuyên, Kim Tuyên…
.jpg)
Hiện tại ,trên địa bàn cả nước riêng về kỹ thuật canh tác, các địa phương đã áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật, như: thiết kế đồi chè chống xói mòn, trồng mật độ hợp lý; áp dụng cơ giới hóa trong hái chè (có khoảng 6.000 máy) với diện tích hái máy chiếm 22,6% diện tích chè kinh doanh của cả nước; kỹ thuật hái dãn lứa (35-40 ngày/lứa) thay hái san trật (7-10 ngày/lứa) vừa giúp tăng năng suất, vừa đảm bảo thời gian cách ly thuốc bảo vệ thực vật.
Mặc dù được thiên nhiên ưu đãi, có năng xuất sản lượng trồng và thu hái chè cao so với thế giới, song mặt hàng chè Việt Nam vẫn chưa tạo dựng cho mình được đẳng cấp chất lượng toàn cầu để nâng tầm giá trị xuất khẩu. Do đó tại hội nghị lần này, Tập đoàn Unilever đã báo cáo tình hình hoạt động dự án “Lồng ghép các nông hộ sản xuất nhỏ vào chuỗi cung ứng chè chất lượng và bền vững ở Việt Nam” triển khai từ tháng 1/2014. Theo đó, mục tiêu của dự án là nhằm tăng sản lượng chè ở Việt Nam đạt chứng nhận Raiforest Alliance được thu mua bởi Unilever lên 30.000 – 35.000 tấn/năm; cải thiện tính bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội của các nông hộ trồng chè quy mô nhỏ và các chủ nhà máy chè ở Việt Nam. Quy mô dự án hợp tác gồm các tỉnh: Phú Thọ, Tuyên Quang, Lâm Đồng, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Nghệ An với tầm ảnh hưởng đến 30 nhà máy chè và khoảng 20.000 hộ dân với nguồn ngân sách 440.000 Euro.
Tuy nhiên, theo ông Flavio Corsin, chuyên gia nông nghiệp, Giám đốc IDH, VN còn tồn tại bất cập trong việc phát triển và định hướng chiến lược của ngành chè Việt Nam. Trong đó, cơ cấu ngành chè tại cấp Trung ương, cấp tỉnh còn hạn chế; chưa có sự thống nhất giữa khối công – tư trong việc cải thiện chất lượng và tính bền vững của ngành chè. Bên cạnh đó, hiệu quả sản xuất nhiều nhà máy còn thấp; ban quản lý của một số nhà máy chưa thực sự quan tâm tới việc sản xuất chè có chứng nhận; một số công ty chè muốn áp dụng các tiêu chuẩn nhưng nguồn vốn còn hạn chế… Hiện nay có tình trạng nhiều nhà máy có hiệu quả sản xuất hạn chế dựa trên tiêu chuẩn do nhà nước ban hành, nhà máy loại C (không đạt yêu cầu), loại B (trung bình) vẫn được phép sản xuất chè.
Một điểm nghẽn khác là Ban quản lý của một số nhà máy chưa thực sự quan tâm đến việc sản xuất chè có chứng nhận, sự thờ ơ này do thị trường chè chưa được chứng nhận vẫn còn lớn. Một số công ty chè muốn áp dụng các tiêu chuẩn, nhưng nguồn vốn còn hạn chế để đầu tư vào các thiết bị. Ngoài ra, một nguyên nhân tồn tại khác là số nhà máy có đầu tư vùng nguyên liệu chiếm khoảng 35,5%; nhà máy áp dụng tiêu chuẩn ISO, HACCP chiếm khoảng 16%. Do đó, cơ cấu sản phẩm chè chủ yếu là chè đen OTD, CTC, trong khi chè xanh, chè ôlong, chè chất lượng cao còn ít. Các doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu chè, dẫn đến giá xuất khẩu chè của Việt Nam thấp, giá trị gia tăng hạn chế.
Giải pháp cho chất lượng
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát, hiện nay sản xuất chè của Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng và chưa bền vững, đặc biệt là giá xuất khẩu chè của Việt Nam đang rất thấp. Mục tiêu trong trung và dài hạn của Việt Nam là tăng sản lượng chè Việt Nam xuất khẩu, thông qua việc giúp các nông dân trồng chè và nhà máy sản xuất chè được chọn lựa đạt tối thiểu 4.0 ở chỉ số về chất lượng.
Hiện nay, chè xuất khẩu Việt Nam mới chỉ đạt 3.6 chỉ tiêu chất lượng, do đó để đạt 4.0 về chỉ tiêu này theo các chuyên gia, Việt Nam cần phải thực hiện các giải pháp như: thành lập ban điều phối ngành chè, dựa trên mô hình ban điều phối ngành cà phê, có sự tham gia của các bộ liên quan (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương…) và cấp tỉnh (đại diện các địa phương có diện tích sản xuất chè lớn); Những nhà máy sản xuất loại C, B nên đươc cảnh báo và cần được tập huấn để nâng dần hiệu quả theo tiêu chuẩn của Nhà nước. Trong vòng 6 tháng (đối với loại C) và 3 năm (đối với loại B) kể từ khi bị cảnh báo, nếu không thể nâng cấp thì các nhà máy này phải đóng cửa; cần đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận cho các nhà máy sản xuất chè. Đồng thời, VN cũng cần xây dựng một hệ thống các biện pháp khuyến khích các nhà máy đang sẵn áp dụng chứng nhận (không chỉ là VietGAP). Các biện pháp khuyến khích có thể gồm hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường tiếp cận với nguồn vốn, đánh thuế thấp hơn… Thông qua các kênh khuyến nông hiện có, Chính phủ cần tuyên truyền phổ biến tới cộng đồng về sản xuất chè bền vững.
Ông Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho rằng, một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho chất lượng chè cũng như giá trị xuất khẩu cạnh tranh của ngành chè Việt Nam giảm sút là do chúng ta trong một thời gian dài đã phá vỡ khâu liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất chè, đặc biệt từ sau năm 2005. Bên cạnh đó, sự lãng phí trong công đoạn sản xuất chè tại các nhà máy cũng là nguyên nhân làm giảm tính kinh tế của chè. Do đó giải pháp triệt để trong thời gian tới là có chiến lược cân đối về vùng nguyên liệu cho các nhà máy và cần có hợp đồng sản xuất mang tính pháp lý giữa các hộ nông dân và nhà máy thu mua.
Anh Phương