13:59:44 | 12/5/2014
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn như giá vật tư đầu vào luôn tăng trong khi giá tiêu thụ sản phẩm đầu ra không ổn định và ở mức thấp, tình hình thời tiết, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp…Tuy nhiên với sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của cả hệ thống chính trị cùng sự đồng tình ủng hộ của người dân, kết quả sản xuất nhìn chung đạt kết quả khả quan.
Năm 2013, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng 1,52% so với năm 2012. Ngành nông nghiệp An Giang đã đẩy mạnh triển khai Nghị Quyết 09 của Tỉnh ủy về ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và bước đầu đã xây dựng được 17/19 mô hình nông nghiệp công nghệ cao với tổng kinh phí hỗ trợ 3,105 tỷ đồng (đạt 81,73% so KH vốn) từ nguồn chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới.
Thách thức trong sản xuất và tiêu thụ
Mặc dù vậy, ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp không ít thách thức. Giá cả nông, thủy sản trong thời gian qua luôn không ổn định. Thêm vào đó, một số nước đang áp dụng hàng rào thuế quan và kỹ thuật như Mỹ và một số nước khu vực Châu Âu để hạn chế sự xâm nhập thị trường của các nước xuất khẩu hàng nông sản và thủy sản mà trong đó có Việt Nam.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang cho biết trước thực trạng khó khăn hiện nay của sản xuất nông nghiệp, ngành nông nghiệp An Giang đã và đang thực hiện các giải pháp như: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất như áp dụng Chương trình “1 phải 5 giảm”, đẩy mạnh xây dựng hệ thống trạm bơm điện để giảm giá thành trong sản xuất. Tập huấn và hướng dẫn nông dân sản xuất theo một số tiêu chuẩn như GlobalGAP, VietGAP để sản phẩm nông nghiệp An Giang có thể thâm nhập tốt các thị trường khó tính. Ứng dụng các giống mới vào trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực hiện tổ chức lại sản xuất theo hướng chuỗi giá trị mà cụ thể là xây dựng các chuỗi liên kết trong sản xuất cho các sản phẩm nông sản (lúa, rau màu) và thủy sản (cá tra, cá sặc rằn, cá lóc,..) nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm giá thành và tăng thu lợi nhuận cho bà con nông dân, đặc biệt là đảm bảo có đầu ra ổn định.
Song song thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và quy hoạch sản xuất theo hướng hàng hóa nhằm ổn định sản xuất, tập trung đầu tư cho sản xuất theo hướng sản xuất có quy hoạch chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Đẩy mạnh thực hiện các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành trong sản xuất. Đẩy mạnh liên kết với các tập đoàn, siêu thị lớn trong nước như Satra, Metro, Co.opmart…để tìm đầu ra ổn định cho nông dân. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế để vừa ứng dụng các công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm và cũng vừa để quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp An Giang tiếp cận được với thị trường quốc tế.
Nhân rộng mô hình “cánh đồng mẫu lớn”
An Giang là tỉnh đi đầu trong việc thực hiện mô hình “cánh đồng mẫu lớn” và mô hình này đã phát huy hiệu quả tích cực trong thời gian qua. Năm 2011, diện tích tham gia ký hợp đồng thực hiện mô hình liên kết cung ứng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đạt khoảng 6.650 ha, có 4 doanh nghiệp tham gia. Năm 2012, diện tích tham gia ký hợp đồng thực hiện mô hình liên kết cung ứng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đạt khoảng gần 23.000 ha với 6 doanh nghiệp; năm 2013: khoảng 35.320 ha với 8 doanh nghiệp tham gia. Kế hoạch năm 2014: khoảng trên 45.000 ha với trên 15 doanh nghiệp tham gia.
Theo đánh giá sơ bộ, các mô hình liên kết sản xuất cung ứng và tiêu thụ cho thấy hiệu quả từ rất lớn giúp hạ giá thành sản xuất bình quân từ 10% - 20%, do đó với diện tích tham gia mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ hàng năm trên dưới 35.000 ha (2013) đã tiết kiệm cho nông dân khoảng 170 tỷ đồng và sẽ còn tiết kiệm nhiều hơn khi diện tích tham gia ngày càng nhiều hơn.
Bên cạnh đó, theo báo cáo từ các doanh nghiệp xuất khẩu thì khi tham gia liên kết sản xuất cung ứng tiêu thụ sản phẩm lúa gạo đã giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được chất lượng sản phẩm đầu ra (độ đồng đều, lẫn tạp, tỷ lệ tấm, dư lượng thuốc BVTV…) đã giúp giá xuất khẩu của doanh nghiệp tăng từ 15-30 USD/tấn so với sản phẩm cùng loại từ các doanh nghiệp mua gạo xô trên thị trường. Từ đó cho thấy liên kết sản xuất cung ứng tiêu thụ trong mô hình “cánh đồng mẫu lớn, cánh đồng lớn” đặc biệt có ý nghĩa không chỉ giúp người nông dân nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống thông qua việc hạ giá thành sản phẩm mà còn giúp doanh nghiệp có được sản phẩm gạo với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Điều này đặc biệt có ý nghĩa và là giải pháp lâu dài để phát triển “sản phẩm lúa gạo Việt Nam chất lượng cao, năng suất cao”, xứng tầm là sản phẩm quốc gia để có thể xâm nhập vào các thị trường khó tính trên thế giới.
Hoàng Ngọc