Vênh quyền lợi doanh nghiệp và nông dân

10:31:23 | 23/5/2014

Mô hình cánh đồng mẫu lớn đã được triển khai từ năm 2011 tại Việt Nam, nhưng đến nay nhiều vướng mắc trong mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân – quan hệ trụ cột để xây dựng mô hình này vẫn chưa được giải quyết.

Khó nhân rộng

Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, mô hình cánh đồng  vẫn bộc lộ những khó khăn thách thức trong triển khai do khả năng sinh lời thấp và rủi ro cao khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Ông Xuân phân tích, lâu nay, việc doanh nghiệp phá vỡ hợp đồng với nông dân và ngược lại nông dân không bán lúa cho doanh nghiệp vẫn diễn ra. Điều này cho thấy cung cách làm ăn thiếu sòng phẳng, chỉ thấy lợi trước mắt của cả đôi bên. Đơn cử như tại Đồng Tháp,  vụ đông xuân 2013-2014, toàn bộ diện tích 1.200 ha của Hơp tác xã được 4 doanh nghiệp đăng ký bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Doanh nghiệp cam kết mua lúa cao hơn giá thị trường tại thời điểm thu hoạch 100 đ/kg đối với giống IR 50404 và 200 đ/kg đối với giống OM 6976.


Tuy nhiên, khi nông dân thu hoạch xong thì có 2 trong số 4 doanh nghiệp đã phá vỡ hợp đồng. Doanh nghiệp ký hợp đồng liên kết, bao tiêu sản phẩm của nông dân nhờ đó mà doanh nghiệp tận dụng nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước để xây dựng kho bãi, hệ thống xay xát, sấy..., trong khi doanh nghiệp không thực sự quan tâm bao tiêu sản phẩm, gây bức xúc cho nông dân. “Vấn đề cốt lõi vẫn là không có quy định xử lý rõ ràng trong những trường hợp tranh chấp”- ông Xuân khẳng định.

Gắn kết “2 nhà”, xây dựng thương hiệu

Thực tế cho thấy, chính quyền, nông dân các địa phương có xây dựng cánh đồng mẫu lớn đều “rất sợ” và không tin tưởng ở hợp đồng đã ký với DN. Bởi, chỉ khi nào DN có nhu cầu thật sự mới mua lúa, còn không thì đưa ra rất nhiều lý do để “bẻ kèo”.

Để mối quan hệ giữa ND - DN gắn kết - cũng là giải bài toán “đầu ra” cho hạt lúa - PGS.TS Phạm Văn Dư - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN- PTNT, cho rằng giữa ND và DN cần thiết phải có sự công khai minh bạch, hài hòa lợi ích. Sự minh bạch đó, không chỉ về giá bán, giá mua, hợp đồng cung ứng mà cả về lợi nhuận của DN lẫn ND. “Việc xử lý những vi phạm trong giao dịch thương mại, phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại giữa ND và DN thường không mang lại kết quả cao. Do đó, giữa hai chủ thể này cần có sự ràng buộc bằng niềm tin hơn là bằng thiết chế, pháp lý.

Cũng theo ông Dư, chúng ta sản xuất ra lúa gạo, nhưng cái chúng ta cần bán là thương hiệu gạo. Đây là yếu tố không chỉ quyết định giá bán cao, mà còn “ghi dấu” vào thị trường với sản lượng và giá trị ổn định. Do đó, cần phải xây dựng, duy trì và bảo vệ thương hiệu hạt gạo.

Chỉ khi nào xây dựng được thương hiệu cho nông sản, Việt Nam mới tạo được sức bật cho ND nói riêng, ngành NNPTNT nói chung. Việc này không thể tiến hành đơn độc mà cần có sự hiệp lực từ Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương, DN và ND- ông Dư nhấn mạnh. 

Theo đó, Chính phủ nên tập trung đầu tư hệ thống kho chứa, lò sấy lúa, đặc biệt có thể đứng ra thu mua lúa gạo với giá đảm bảo có lợi cho ND với 2 mục tiêu: An ninh lương thực và thương mại. Đối với lúa thương mại, khi thị trường thuận lợi, giá lên cao thì cho các DN đấu giá. Cách làm này vừa có lợi cho ND, vừa có nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, cần có chính sách cho HTX vay vốn thu mua tạm trữ, cho ND ký gửi. Hệ thống các ngân hàng nên cho ND vay 1 năm chứ không theo mùa vụ vài tháng như hiện nay, nhằm giúp ND có điều kiện chờ giá lúa lên để bán, đảm bảo lợi nhuận.

Nguyễn Thanh