Bến Tre: Thành công từ phát huy nội lực

10:29:03 | 4/8/2014

Về Bến Tre hôm nay mới cảm nhận hết được những đổi thay từ trong diện mạo, sự chuyển mình rõ nét của một địa phương còn nhiều khó khăn đang mạnh mẽ bứt phá vươn lên. Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Cao Văn Trọng khẳng định: "Chính sự chung sức đồng lòng, nỗ lực vượt khó của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân đã góp phần đưa Bến Tre bước những bước vững chắc trên con đường phát triển, thay đổi hẳn diện mạo của một tỉnh thuần nông để tự tin đi lên CNH - HĐH". Kim Băng - Minh Tuấn thực hiện.

Qua hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010-2015), đến nay tỉnh Bến Tre đã gặt hái được những thành tựu đáng khích lệ nào?

Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,43%/năm. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng khu vực nông nghiệp đã giảm, từ 45,3% năm 2010 còn 44,2%; khu vực công nghiệp-xây dựng từ 18,4% tăng lên 20,2% và khu vực dịch vụ từ 35,3% tăng lên 35,6%. GDP bình quân đầu người đạt 28,479 triệu đồng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Công tác cải cách hành chính, cải cách công vụ, lề lối làm việc đã có nhiều chuyển biến tích cực, tạo lập được niềm tin trong nhân dân và trở thành cú hích mạnh mẽ cho sự phát triển.

Về nông nghiệp, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế vườn và kinh tế thủy sản, gắn với phát triển dịch vụ và củng cố, mở rộng ngành nghề nông thôn. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tiếp tục tăng khá, bình quân đạt 7,9%/năm.

Sản xuất công nghiệp có bước phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 23,21%/năm, cao hơn gấp đôi so với nhiệm kỳ 2006-2010. Đến nay cơ bản đã lấp đầy 2 KCN và 1 CCN hiện hữu, tỉnh đang tập trung đầu tư hạ tầng KCN Giao Long giai đoạn 2, mở rộng KCN An Hiệp, CCN Phong Nẫm, CCN Thị trấn-An Đức để tiếp tục thu hút mạnh nguồn lực đầu tư mới từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Về hoạt động xuất nhập khẩu, thị trường xuất khẩu phát triển theo hướng giảm dần thị trường trung gian, gián tiếp, tăng dần thị trường xuất khẩu trực tiếp và mở rộng thêm một số thị trường mới. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 23,7%/năm. Thương mại nội địa tiếp tục phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất và tiêu dùng.

Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ cũng có bước phát triển khá, góp phần làm thay đổi diện mạo cả khu vực đô thị lẫn khu vực nông thôn. Công tác an sinh xã hội được đặc biệt chú trọng; nhiều hoạt động hỗ trợ giảm nghèo thiết thực đã được triển khai, mang lại kết quả rõ nét trong kéo giảm tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 9%; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên 46%; giải quyết việc làm cho khoảng 53.000 lao động, góp phần kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 3,48%.

Điều kiện giao thông thuận lợi; nguồn lao động, nguyên liệu tại chỗ dồi dào; chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý, định hướng phát triển KT - XH phù hợp… chính là những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của kinh tế Bến Tre những năm qua. Vậy cụ thể tỉnh đã tận dụng hiệu quả những lợi thế này như thế nào?

Trong thời gian qua, được sự quan tâm hỗ trợ của của các Bộ, Ngành TW; sự nỗ lực của địa phương và sự đồng thuận của nhân dân, Bến Tre đã từng bước đi đúng hướng và định hướng phát triển kinh tế phù hợp, góp phần vào phát triển kinh tế bền vững.


Cụ thể về giao thông, nhiều công trình (cầu Rạch Miễu, cầu Cổ Chiên, cầu Hàm Luông, cầu Ván, cầu Chợ Lách, các tuyến đường theo quy hoạch...) được xây dựng, góp phần hoàn thiện hệ thống giao thông của tỉnh, tạo thành hành lang phía Đông vùng ĐBSCL thông suốt; phá bỏ thế ốc đảo tạo điều kiện để Bến Tre từng bước hội nhập, phát triển, giao lưu kinh tế với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đặc biệt là trung tâm kinh tế tài chính Tp.HCM.

Về đào tạo, toàn tỉnh Bến Tre có 17 cơ sở dạy nghề. Hàng năm, các cơ sở dạy nghề của tỉnh tuyển sinh đào tạo ở 3 cấp trình độ cho khoảng 9.000 lao động với các ngành nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tỉnh đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia; đồng thời tập trung thực hiện Đề án đào tạo nghề theo Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, mang lại nhiều kết quả thiết thực nhằm giúp cho lao động nông thôn có được kỹ năng và có việc làm ổn định.

Về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, tỉnh đã ban hành Quy chế phối hợp giữa các sở ngành trong việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre.  Quy chế được thực hiện theo cơ chế đầu mối tại Trung tâm Xúc tiến Đầu tư tỉnh Bến Tre (IPA Bến Tre), áp dụng cho một số khâu trong quy trình đầu tư hiện hành. Ngoài ra tỉnh đã chỉ đạo IPA Bến Tre là cơ quan đầu mối chủ trì, phối hợp với sở, ngành thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá hiệu quả các cơ chế chính sách thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua; đồng thời cập nhật các văn bản chính sách mới của TW để kịp thời tổng hợp, điều chỉnh xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư đầu tư chung của tỉnh theo đúng quy định hiện hành.

Nhiều ý kiến cho rằng để tạo nên những bứt phá ngoạn mục trong thời gian tới, Bến Tre cần tập trung khai thác những thế mạnh mới của tỉnh. Ông nghĩ sao về vấn đề này và cụ thể những thế mạnh mới này là gì?

Để tạo nên những bứt phá và phát triển kinh tế tỉnh nhà bền vững trong thời gian tới, Bến Tre sẽ tiếp tục tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến để tạo bước đột phá thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Công nghiệp chế biến là nhóm ngành có tính quyết định đối với sự phát triển chung của công nghiệp Bến Tre, trong đó, công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng 54% giá trị sản xuất công nghiệp. Bến Tre đã tập trung xây dựng và triển khai thực hiện đề án phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, thực phẩm trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 nhằm định hướng phát triển bền vững ngành công nghiệp thế mạnh này. Qua triển khai thực hiện các giải pháp khuyến khích hỗ trợ, kêu gọi đầu tư, nhóm ngành này đã đạt mức tăng trưởng bình quân trong 3 năm qua (2011 – 2013) là 23,11%/năm. Đây là một tính hiệu rất khả quan cho bước đường phát triển kinh tế của Bến Tre trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, nhằm ổn định nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tỉnh đã tập trung xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình phát triển ngành dừa trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, với mục tiêu gia tăng năng suất, sản lượng và nâng cao thu nhập cho người trồng dừa; đảm bảo nguồn nguyên liệu cung ứng ổn định cho sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến dừa tỉnh nhà; thúc đẩy sự gắn kết cung ứng và nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị của ngành dừa, góp phần thúc đẩy ngành chế biến dừa nói riêng và ngành công nghiệp chế biến nông, thủy, hải sản, thực phẩm của tỉnh nói chung phát triển  nhanh và bền vững.

Để đưa Bến Tre đạt mức trung bình khá so với vác tỉnh trong khu vực theo như Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ IX đề ra, được biết tỉnh sẽ tiếp tục tập trung triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ chủ yếu. Xin ông cho biết cụ thể 10 nhiệm vụ này là gì?

Để đưa Bến Tre đạt mức trung bình khá so với các tỉnh trong khu vực, Nghị quyết Đại hội tỉnh đảng bộ đã đề ra 10 nhiệm vụ chủ yếu gồm: đẩy mạnh phát triển công nghiệp - TTCN để công nghiệp thật sự là khâu đột phá, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung - hiện đại - bền vững - thân thiện với môi trường, gắn phát triển nông nghiệp với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn; phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch, thương mại và các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; huy động vốn đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH và nâng cao đời sống nhân dân; tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển; chăm lo phát triển các lĩnh vực giáo dục - y tế, nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ, coi trọng bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; giữ vững ổn định quốc phòng, an ninh; đảm bảo trật tự an toàn xã hội; tăng cường công tác dân vận ở các cấp, các ngành; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.