11:21:38 | 2/2/2015
Mở cửa cho ước mơ tích tụ đại điền
Là một nhà nghiên cứu tiên phong về chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn, TS. Đặng Kim Sơn đúc kết rằng: để đáp ứng yêu cầu sản xuất lớn trong nông nghiệp, thúc đẩy nhanh tốc độ tái cơ cấu ngành thì việc tích tụ ruộng đất là quy luật tất yếu.
Sau khá nhiều tranh cãi về quan điểm tích tụ ruộng đất, Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực từ 1/7/2013 đã mở ra cơ hội tích tụ ruộng đất cho những nông dân, tổ chức, doanh nghiệp có đủ năng lực tổ chức sản xuất lớn. Theo Luật, thời hạn giao đất nông nghiệp được kéo dài đến 50 năm (so với 20 năm theo qui định cũ). Trong Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 qui định chi tiết Luật Đất đai sửa đổi, đã tăng đáng kể hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất. Cụ thể: đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản và đất làm muối hạn mức không quá 30 ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực Đông Nam bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long; không quá 20 ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại.

Đối với đất trồng cây lâu năm, hạn mức không quá 100 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 300 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi. Đối với đất rừng sản xuất là rừng trồng, Hạn mức không quá 150 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng và 300 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Luật đất đai sửa đổi còn có các qui định nhằm khắc phục, loại bỏ những trường hợp thu hồi đất làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất. Luật có các qui định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp sử dụng lãng phí, không đúng mục đích đất đã thu hồi.
Những điểm sửa đổi quan trọng nêu trên trong Luật Đất đai sửa đổi được đánh giá là đã mở ra thời cơ mới cho tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp.
Tạo nên đòn bẩy bằng khoa học công nghệ
Tại hội nghị Khoa học và Công nghệ phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, hồi tháng 12/2014, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Cao Đức Phát thừa nhận: mặc dù mức đầu tư tăng trung bình 11 đến 12%/năm; ngành nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp và hoạt động khuyến nông, đã đạt được một số thành tích nổi bật nhưng trình độ khoa học và công nghệ (KH&CN) trong nông nghiệp còn thấp, chậm phát triển, có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân, trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp, số lượng lao động đang giảm xuống, cạnh tranh về nguồn nước, các tài nguyên thiên nhiên và nguồn vốn ngày càng gay gắt thì khoa học công nghệ phải đặc biệt được coi trọng là khâu đột phá nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt hàng nông sản chủ lực và và duy trì tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp.
Để hoạt động KH&CN tạo nên đòn bẩy trong phát triển nông nghiệp sản xuất lớn, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT khẳng định: trong thời gian tới Bộ sẽ khẩn trương hoàn thiện đồng bộ cơ chế chính sách đổi mới thúc đẩy hoạt động KH&CN. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng sản phẩm KH&CN; rà soát, chuyển đổi cơ chế hoạt động của các tổ chức KH&CN nông nghiệp công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm KH&CN trong nông nghiệp, khuyến khích tạo mọi điều kiện để thúc đẩy việc mua bán, chuyển nhượng bản quyền đối với các sản phẩm khoa học công nghệ tạo ra từ nguồn ngân sách nhà nước.
Bộ cũng sẽ có văn bản yêu cầu các địa phương ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển KH&CN, quy hoạch mạng lưới tổ chức KH&CN nông nghiệp, công lập của địa phương theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. Tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, tạo cơ chế để doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp vào việc ứng dụng kết quả khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ.
Cú hích cho xây dựng chuỗi giá trị
Từ thực tế thành công của một số doanh nghiệp thực hiện mô hình liên kết sản xuất lớn theo chuỗi giá trị như: công ty CP bảo vệ thực vật An Giang, Vinafood 1, Công ty chăn nuôi CP, Công ty CP cộng đồng Green food.... tháng 5, Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định số 1050/QĐ-NHNN cho vay thí điểm đối với doanh nghiệp thực hiện liên kết và các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
Tính đến hết năm 2014 đã có 3 đợt ký kết hợp đồng tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp thuộc chương trình thí điểm này. Gần 40 doanh nghiệp được vay vốn với tổng số vốn 7.320 tỉ đồng, mức lãi suất tối đa là 7%/năm đối với các dự án vay ngắn hạn, trung hạn 10%/năm và dài hạn là 10,5%/năm. Đối tượng được vay vốn là các doanh nghiệp có ký kết hợp đồng liên kết trong sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp; các doanh nghiệp được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp giấy chứng nhận là doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; các hộ nông dân, hợp tác xã đại diện cho nông dân thực hiện ký kết hợp đồng liên kết theo chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với các doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước, Bộ NN&PTNT phê duyệt gắn với các dự án liên kết cụ thể.
Quyết định số 1050/QĐ-NHNN cho phép trong trường hợp khách hàng không đủ tài sản đảm bảo khoản vay mà ngân hàng thương mại kiểm soát được dòng tiền theo chuỗi liên kết thì có thể xem xét áp dụng cho vay không có tài sản đảm bảo. Mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị của phương án/dự án vay vốn phục vụ cho các mô hình sản xuất.
Chương trình cho vay thí điểm theo Quyết định số 1050/QĐ-NHNN được đánh giá là hết sức tích cực trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp trở thành ngành kinh tế sản xuất lớn, bền vững.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2009-2013 khoảng 520.490 tỷ đồng, tăng gấp 2,62 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư ngân sách nhà nước do Bộ NN&PTNT quản lý giai đoạn 2006-2014 là khoảng 33.522 tỷ đồng. Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đầu tư các công trình thủy lợi do Bộ quản lý trong giai đoạn này khoảng 36.096 tỷ đồng. Gần 84% trong tổng các nguồn vốn nêu trên được dành đầu tư cho các dự án thủy lợi quy mô lớn, cấp bách. Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ NN&PTNT, đến giai đoạn 2011-2014, cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp mới bước đầu được điều chỉnh theo hướng giảm tỷ trọng đầu tư cho ngành thủy lợi, tăng đầu tư cho các ngành trực tiếp sản xuất.
Trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư công hạn chế, để duy trì nhịp độ tăng trưởng ngành, Bộ NN&PTNT chủ trương điều chỉnh mạnh cơ cấu, cơ chế đầu tư. “Định hướng là huy động tối đa nguồn lực đầu tư từ tư nhân vào nông nghiệp, nông thôn, tăng tỷ trọng vốn đầu tư ngoài ngân sách trong tổng vốn đầu tư vào ngành. Việc đầu tư phải dựa trên nguyên tắc lấy hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường làm mục tiêu ưu tiên lựa chọn dự án đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư và phân bổ vốn.” - Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho biết. Lĩnh vực sẽ được tăng ưu tiên đầu tư là thủy sản với tỷ trọng 8,7% trong giai đoạn 2016-2020. Bộ cũng điều chỉnh cơ cấu đầu tư công theo vùng qua việc tăng tỷ trọng đầu tư cho các vùng lợi thế phát triển nông nghiệp hàng hóa như Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên; hỗ trợ xóa đói giảm nghèo ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng ven biển và hải đảo và đầu tư nghiên cứu thị trường.
Nguyễn Thanh
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI