Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên năng suất: Thách thức của nền kinh tế

10:18:01 | 4/2/2015

Năng suất thấp là nguyên nhân chính kìm hãm năng lực cạnh tranh - chìa khoá của tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong cuộc đua phát triển kinh tế nếu như nhược điểm về năng suất của Việt Nam không được khắc phục.

Năng suất và năng lực cạnh tranh

Trước hết, chúng ta cần hiểu năng suất là gì và năng suất có tầm quan trọng thế nào đối với năng lực cạnh tranh. Năng suất là thước đo tính hiệu quả của các hoạt động kinh doanh, được tính bằng kết quả đầu ra chia cho đơn vị đầu vào. Đơn vị đầu vào ở đây có thể là thời gian lao động (năng suất lao động) hay tất cả các yếu tố sản xuất bao gồm lao động, máy móc, nguyên vật liệu và năng lượng. Năng suất quyết định mức độ hiệu quả (hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn vốn và quá trình sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm) và sáng tạo (phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình sản xuất, kinh doanh tinh vi với hàm lượng chất xám cao). Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, tính sáng tạo và hiệu quả lần lượt xếp thứ nhất và thứ hai dựa trên mức độ quan trọng trong ba yếu tố dẫn dắt năng lực cạnh tranh (minh họa 1). Từ đó có thể thấy, năng suất chính là chìa khóa của năng lực cạnh tranh.

 

Minh hoạ 1: Các yếu tố dẫn dắt năng lực cạnh tranh (Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới)

Vấn đề năng suất của Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân và thách thức

Trong báo cáo mới nhất của mình, Tổ chức Năng suất châu Á đánh giá Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có năng suất thấp nhất tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Theo đó, năng suất của Việt Nam chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Căn cứ theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2014-2015 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Singapore xếp thứ 2, Malaysia xếp thứ 20, Thái Lan xếp thứ 31 và Việt Nam xếp thứ 65 trên tổng số 144 nền kinh tế. Như vậy, năng suất và năng lực cạnh tranh của Việt Nam được xếp hạng thấp trong khu vực. Đây là kết quả không bất ngờ. Trong nhiều năm qua, Việt Nam cạnh tranh chủ yếu dựa trên giá lao động rẻ và chi phí nguyên liệu thấp (yếu tố cơ bản)- là yếu tố dẫn dắt năng lực cạnh tranh ít quan trọng nhất (minh họa 1), trong khi Thái Lan và Malaysia tạo dựng lợi thế cạnh tranh bằng cách liên tục cải tiến sản phẩm, dịch vụ, còn Singapore từ lâu đã cạnh tranh thông qua các sản phẩm, dịch vụ đặc thù với trình độ kỹ thuật rất cao. Việc dựa dẫm vào lợi thế lao động giá rẻ và chi phí thấp trong một thời gian dài đã khiến các doanh nghiệp lơ là trong việc nâng cao khả năng hoạch định chiến lược, trình độ quản trị, đẩy mạnh áp dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh, cải thiện tay nghề lao động và tăng cường hiệu quả sử dụng vốn, dẫn đến kết cục là năng suất của lao động Việt Nam ngày càng thấp hơn so với các nước trong khu vực. Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp, những lợi thế cạnh tranh truyền thống nói trên đang dần biến mất thì vấn đề năng suất thấp sẽ là một cản trở lớn đối với việc thu hút đầu tư và hội nhập quốc tế và sẽ khiến chúng ta rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, trong tương lai gần, năng suất cần phải trở thành động lực chính thúc đẩy năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế của Việt Nam.


Ngoài ra, cũng cần bàn thêm về năng suất sử dụng vốn. Theo Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey, hệ số hiệu quả sử dụng vốn bình quân của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay rơi vào khoảng 1,62 – có nghĩa là các doanh nghiệp này cần trung bình 1,62 đô-la vốn để có thể tạo thêm được một đô-la doanh thu. So sánh con số này với con số bình quân tại các công ty đa quốc gia (0,69 đô-la) và các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam (0,47 đô-la), chúng ta thấy được sự chênh lệch rõ rệt về vốn tài chính. Nói đến hiệu quả sử dụng vốn tự nhiên và xã hội, con số có thể kém hơn nhiều. Trên thực tế, có rất ít doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến năng suất sử dụng hai loại vốn này, mặc dù chúng có tầm quan trọng không kém vốn tài chính. Để đo lường năng suất sử dụng vốn tự nhiên và vốn xã hội, cách hiệu quả nhất là thực hiện Báo cáo Bền vững. Tại Việt Nam hiện nay, tập đoàn Bảo Việt và Hoàng Anh Gia Lai là hai trong số rất ít những doanh nghiệp Việt Nam đi đầu trong việc thực hiện thông lệ tốt này.

Cần làm gì để cải thiện năng suất?

Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam cần một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm vạch định chiến lược, lộ trình dài hạn, đặt mục tiêu, xây dựng chương trình hành động quốc gia về nâng cao năng suất cho Việt Nam. Để làm việc này, Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của những quốc gia có năng suất cao như Thụy Sỹ, Singapore, Nhật Bản…Đồng thời, cơ quan nói trên cũng sẽ có nhiệm vụ phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan có liên quan để theo dõi tiến độ thực hiện chương trình hành động cũng như tổng hợp kết quả để định kỳ báo cáo Chính phủ.

Với việc nâng cao năng suất cho các doanh nghiệp, trong thời gian tới, VCCI, cụ thể là Văn phòng DN vì sự PTBV sẽ hợp tác với các đối tác trong nước và nước ngoài như Viện Năng suất Việt Nam, Tổ chức Năng suất châu Á (APO)...chủ động xây dựng một chương trình hành động về nâng cao năng suất cho các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2015 – 2025, tầm nhìn đến 2035. Trước mắt, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và nghiên cứu về năng suất trong một số ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) để từ đó có thể vẽ được chính xác bức tranh về năng suất của các doanh nghiệp trong các ngành này, bao gồm thực trạng và các nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến năng suất để từ đó vạch ra những giải pháp và mục tiêu cụ thể nhằm cải thiện năng suất cho doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ thực hiện một loạt các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất như truyền thông – nâng cao nhận thức, đào tạo, tập huấn, tư vấn hỗ trợ kỹ thuật...Kết quả đạt được trong một số ngành thí điểm ban đầu sẽ được nhân rộng ra các ngành kinh tế khác của Việt Nam.

Một trong những trọng tâm của chương trình hành động nói trên là chiến lược năng suất xanh cho các doanh nghiệp. Đây là chiến lược kết hợp các công cụ quản lý, kỹ thuật và công nghệ phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất, đồng thời giảm tiêu thụ nguyên vật liệu và năng lượng, do đó giúp hạ thấp chi phí sản xuất và chi phí xử lý môi trường. Theo kết quả nghiên cứu của Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam, việc áp dụng năng suất xanh trong ngành sản xuất xi măng sẽ giúp Việt Nam tiết kiệm 2,5 triệu tấn than cám hỗn hợp, tương đương 5.295 tỷ đồng tiền than, giảm mức phát thải khí nhà kính trên 6,743 triệu tấn CO2 quy đổi. Việc thực hiện hiệu quả Chương trình Hành động Chiến lược Tăng trưởng Xanh của Việt Nam đã được Thủ tướng phê duyệt từ năm 2014, sẽ giúp các doanh nghiệp quản lý, đo lường và cải thiện năng xuất xanh của mình thông qua các hoạt động kinh doanh góp phần vào tăng trưởng bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.

Các nguồn tăng trưởng năng suất

  • Tăng trưởng về số lượng người lao động: Đây là là một chiến lược không bền vững và quan trọng hơn, nó không tác động tới việc tăng năng suất hay tăng thu nhập đầu người. Lấy ví dụ, GDP của một quốc gia có thể tăng nếu lực lượng lao động của quốc gia ấy tăng lên, tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người có thể sẽ không tăng.
  • Tăng năng suất của những ngành có năng suất cao: Khi khả năng tăng năng suất do chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế đang dần suy giảm theo thời gian thì đây là giải pháp bền vững hơn. Hiện tại chúng ta có thể điểm danh trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ thì đâu là những ngành có năng suất cao hơn những ngành khác, từ đó có thể có những chính sách khuyến khích hợp lý để tiếp tục tăng năng suất trong những ngành này.
  • Tăng năng suất trong tất cả các ngành của nền kinh tế: đây là bài toán lâu dài của nền kinh tế. Lời giải là sự cam kết cao độ của toàn bộ hệ thống chính trị, từng tổ chức, từng doanh nghiệp và từng người lao động.

ThS. Nguyễn Quang Vinh

Giám đốc Văn phòng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững, VCCI

Tổng Thư ký Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam (VBCSD)