Tiếp tục cải cách cơ cấu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu

15:54:51 | 24/3/2015

“Mặc dù tình hình kinh tế của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, song cần tiếp tục có những cải cách về cơ cấu nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu để nền kinh tế khai thác được tối đa tiềm năng tăng trưởng”. Đây là nhận định của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) trong báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2015 vừa được công bố tại Hà Nội.

GDP năm 2015 tăng lên 6,1%

Theo báo cáo này, dự báo tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam sẽ tăng lên 6,1% trong năm 2015 và 6,2% trong năm 2016, trong đó FDI sẽ đóng vai trò là động lực quan trọng. Số liệu từ Cục Đầu tư Nước ngoài cho biết số vốn FDI mới cam kết đã tăng lên 15,6 tỉ USD trong năm 2014,  trong khi  thêm 4,6  tỉ USD được cam kết cho các dự án đầu  tư nước ngoài đang hoạt động. Dự báo này được đưa ra với giả định Chính phủ Việt Nam sẽ duy trì chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cải cách tái cơ cấu. Lạm phát hàng năm dự báo tăng 2,5% trong năm 2015, tăng nhanh hơn lên 4,0% trong năm 2016 khi cầu trong nước và giá dầu thế giới tăng lên.


Theo ông Tomoyuki Kimura, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam: “Tình hình kinh tế được cải thiện ở những nền kinh tế lớn – đặc biệt là Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam – sẽ tạo động lực cho xuất khẩu, song tác động tích cực này sẽ phần nào bị giảm sút do tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc. Việt Nam cũng được hưởng lợi từ giá dầu thế giới thấp, làm tăng thu nhập khả dụng của người dân và giảm chi phí hoạt động kinh doanh”.

Báo cáo ADO nhấn mạnh mặc dù tình hình kinh tế Việt Nam có cải thiện hơn, song một loạt các yếu tố mang tính cơ cấu tiếp tục ngăn cản Việt Nam phát huy được tối đa tiềm năng tăng trưởng của mình. Trong ngắn hạn, cần ưu tiên tăng cường hệ thống ngân hàng và vạch ra chiến lược rõ ràng để giải quyết vấn đề nợ xấu. Tăng trưởng kinh tế cũng sẽ được thúc đẩy nhờ các luật mới hướng dẫn việc thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước và tăng cường cổ phần hóa các doanh nghiệp này.

Thách thức chính sách – kết nối doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu 

Tuy nhiên, theo báo cáo, nâng cao tốc độ tăng trưởng về lâu dài phụ thuộc vào khả năng cải cách cơ cấu sâu rộng hơn của Việt Nam, đặc biệt là hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước hội nhập sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Nền  kinh  tế Việt Nam đã  từng bước mở  cửa  trong  suốt 30 năm qua,  với nhiều hiệp định  thương mại được ký kết sau khi Việt Nam  trở  thành  thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2007, thúc đẩy đầu tư nước ngoài trực tiếp, xuất khẩu và phát triển kinh tế. Luồng vốn FDI đạt trung bình 7,3 tỉ USD mỗi năm  trong giai đoạn 2007–2014. Thương mại quốc  tế phát  triển  làm cho  tỉ  trọng thương mại  so  với GDP  tăng  đến  170%. Kim  ngạch  xuất  khẩu  hàng  hóa  công nghiệp tăng mạnh trong 5 năm vừa qua khi các công ty đa quốc gia xây dựng cơ sở sản xuất ở Việt Nam để lắp ráp sản phẩm như điện thoại di động và hàng điện tử, hoặc để sản xuất  linh kiện như một công đoạn  trong chuỗi sản xuất  toàn cầu của họ.

Cho đến nay, phần đóng góp chính của Việt Nam vào chuỗi sản xuất này vẫn là lao động kỹ năng thấp. Chi phí nguyên liệu và linh kiện nhập khẩu vào Việt Nam ước  tính  lên đến 90% giá  trị  xuất  khẩu  các sản phẩm  chế  tác  của Việt Nam  ra nước ngoài. Sự thịnh vượng kinh tế trong tương lai phụ thuộc nhiều vào việc đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi giá trị toàn cầu, để các doanh nghiệp được hưởng lợi từ nguồn vốn và công nghệ từ nước ngoài, tiếp cận với thị trường thế giới, và tạo tác động lan tỏa đến toàn bộ nền kinh tế. Tại  thời điểm này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ  (DNVVN) của Việt Nam nhìn  chung  vẫn  thiếu  năng  lực  tham  gia  vào  chuỗi  cung  cấp  cho  các  nhà máy nước ngoài đầu  tư. Chỉ có 36% doanh nghiệp Việt Nam hội nhập vào mạng  lưới sản  xuất  cho  xuất  khẩu,  so  với  gần  60%  ở Malaysia  và Thái  Lan. Chỉ    21% DNVVN của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, và tỉ trọng đóng góp của DNVVN vào xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác.

Mặc dù chính phủ vẫn đang hỗ trợ phát triển công nghiệp theo chiều sâu và phát  triển  DNVVN,  song  do  thiếu  sự  phối  hợp  liên  ngành  nên  chính  sách  còn manh mún    việc  thực hiện  còn  yếu  kém. Đề  xuất  về một dự án  luật mới cho DNVVN sẽ  là một cơ hội để giải quyết các vướng mắc, yếu kém này. Bên cạnh đó,  tăng cường  tham vấn với khu vực  tư nhân sẽ cung cấp  thông  tin nhiều hơn cho chính phủ về những hạn chế đang ngăn cản sự kết nối với các mạng lưới sản xuất. Khu vực tư nhân cần tham gia nhiều hơn vào các sáng kiến thiết kế cho sự phát triển của khu vực này. Ví dụ, thành công của Viện Quản trị Công ty được đề xuất mới đây, với mục tiêu tăng cường công tác quản trị công ty, sẽ phụ thuộc vào việc thu hút tài trợ và sự ủng hộ từ khu vực tư nhân. 

Bao cáo cho rằng, các  chiến  lược  ngành  cũng  đóng  vai  trò  cần  thiết.  Đối  với  các  doanh nghiệp sản xuất, khuyến khích sự phát  triển của các  cụm doanh nghiệp sẽ góp phần  tạo  ra quy mô kinh  tế, chia sẻ kiến  thức, giảm chi phí giao dịch và vận  tải. Ngành nông nghiệp sẽ được hưởng lợi từ việc cải thiện các tiêu chuẩn cấp chứng chỉ sản phẩm và quản lý nguồn lợi hải sản tốt hơn.  

Đầu năm 2015, Thủ  tướng đã phê duyệt  lựa chọn năm ngành ưu  tiên để phát  triển các cụm công nghiệp và chuỗi giá  trị sản phẩm: điện  tử, dệt, chế biến thực phẩm, máy móc nông nghiệp và du lịch. Do đó, theo báo cáo, VN cần xây dựng kế hoạch hành động cho các ngành này để tập trung hỗ trợ cho các chuỗi cung ứng đó, phát huy tối đa tiềm năng lan tỏa của vốn FDI đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, theo các  thước đo giá  trị gia  tăng  trong nước,  tạo công ăn việc  làm và  thu ngân sách.

“Để tăng cường năng lực cho các DNVVN tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, cần nỗ lực tăng cường sự phối hợp liên ngành, đặc biệt là trong quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách dành cho DNVVN. Tăng cường tham vấn rộng rãi với khu vực tư nhân còn giúp xác định các vướng mắc hạn chế sự kết nối với mạng lưới sản xuất. Cần có các chiến lược cho từng ngành để hỗ trợ thành lập các cụm công nghiệp và tạo quy mô kinh tế,” Ông Kimura nhấn mạnh.

Anh Mai