Khắc phục cách biệt giới

10:35:05 | 11/5/2015

Bảo đảm bình đẳng giới chính là nền tảng cơ bản thực hiện công bằng quyền lợi giữa phụ nữ và nam giới, thực hiện các yêu cầu cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người. Báo cáo mới nhất về thực hiện chương trình Mục tiêu thiên niên kỷ của Chính phủ cho thấy Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vược bậc về bình đẳng giới. Địa vị của phụ nữ đã được nâng cao trong các mặt của đời sống xã hội, bình đẳng giới đã được tăng cường trong lĩnh vực lao động và việc làm, giáo dục và đào tạo cũng như trong bộ máy chính quyền các cấp. Chính vì vậy mà Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia Đông Á có tốc độ khắc phục cách biệt giới nhanh nhất trong vòng 20 năm trở lại đây.

Quyền phụ nữ được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật

Báo cáo của nhiều tổ chức quốc tế đánh giá: Việt Nam đã có rất nhiều hành động nhằm giảm bớt sự kỳ thị và bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Những hành động này thậm chí đã được thể chế hóa thành chính sách nhà nước, thành văn bản luật, đó là Luật Bình đẳng giới được ban hành năm 2006, và mới đây là Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Cũng không có nhiều nước trên thế giới mà các hành động, biện pháp thực hiện bình đẳng giới được đưa thành chương trình hoạt động cụ thể của từng tỉnh thành, từng địa phương… như ở Việt Nam. Không chỉ có vậy, vấn đề bình đẳng giới và đảm bảo quyền của phụ nữ được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình…

Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong các nước sớm ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) và nội luật hóa các quy định của Công ước này.

Việt Nam cũng ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ.

Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện quyền con người theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ cập của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên cho thấy, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao. Điều này đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.

Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, chính sách và bộ máy, Việt Nam đạt được những thành quả hết sức cơ bản về bình đẳng giới. Về chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo tăng lên trong giai đoạn vừa qua. Đặc biệt, hiện có 2 phụ nữ được bầu vào Bộ Chính trị và 1 phụ nữ được bầu vào Ban Bí thư, đây là con số cao nhất từ tất cả các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở cấp trung ương, có 2 bộ trưởng, 15 thứ trưởng và tương đương, 4 phó tổng cục trưởng... là nữ. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy.

Trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm, lao động nữ hiện chiếm khoảng 48,5% trong tổng số lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam là 82,5% so với nữ là 73,5%. Số lao động nữ được tạo việc làm trong năm 2013 chiếm 48%, đạt chỉ tiêu kế hoạch Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Trong năm 2013, tuyển mới dạy nghề đạt trên 1,732 triệu người trong đó nữ chiếm 42%, đạt 91,15% kế hoạch (tăng 14% so với thực hiện năm 2012).

Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao)..

Cần thay đổi định kiến


Cho dù đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội chưa đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 (phấn đấu đạt từ 33% trở lên) và chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. Định kiến giới truyền thống về vai trò của phụ nữ, gắn phụ nữ với công việc chăm sóc gia đình và nam giới với việc kiếm tiền giúp gia đình vẫn còn tồn tại; chính sách, cơ chế công tác cán bộ nữ chưa triển khai đồng bộ, thiếu một lộ trình tạo nguồn cán bộ cụ thể.


Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu đặt ra ở Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các công việc dễ bị tổn thương cao hơn nam giới; phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong khu vực phi chính thức của thị trường lao động. Họ kiếm được ít thu nhập hơn và ít được pháp luật về lao động bảo vệ và ít được tiếp cận trực tiếp với sự bảo trợ xã hội.

Đặc biệt, nạn ngược đãi phụ nữ vẫn còn tồn tại ở một số nơi, đặc biệt là ở những vùng, những khu vực trình độ dân trí chưa cao, vẫn còn phụ nữ dân tộc thiểu số chưa biết chữ.

Không thể phủ nhận công lao của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, kỳ vọng mà xã hội trao cho họ là rất lớn. Chính phủ Việt Nam đánh giá tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển kinh tế, xã hội và khẳng định bình đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội.

Vì vậy, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, ở VN, ngoài các chương trình hành động của Chính phủ, ngoài sự bảo vệ của pháp luật, để thực sự có một xã hội bình đẳng giới, còn cần phải thay đổi quan niệm của nhiều người về vấn đề bình đẳng nam – nữ; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc làm.

Quỳnh Anh