10:13:32 | 29/6/2015
FTA với Hàn Quốc và Liên minh Hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan đã đàm phán xong, FTA Việt Nam – EU và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng đã đi vào những vòng cuối. Các Hiệp định FTA đang mở ra cơ hội phát triển bứt phá lớn cho ngành Dệt May Việt Nam như ưu đãi thuế quan, tăng lợi nhuận biên, tăng quy mô xuất khẩu, thu hút đầu tư hoàn thiện chuỗi cung ứng, phát triển các thị trường mới, tăng cường năng lực quản trị của doanh nghiệp và chuyển dịch lên vị trí cao hơn của chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên,bên cạnh cơ hội lớn, các FTA cũng mang lại thách thức không nhỏ cho Ngành Dệt May Việt Nam.
Xoay quanh chủ đề vượt qua rào cản, đón bắt cơ hội từ các Hiệp định FTA; đặc biệt là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương ( TPP) đối với Ngành Dệt may Việt Nam, Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với ông Lê Tiến Trường, Phó Chủ tịch Hiệp Hội Dệt may Việt Nam, Tổng Giám đốc, Tập đoàn Dệt may Việt Nam - Vinatex. Hoàng Thắm thực hiện.
Thưa ông khi Hiệp định TPP được thông sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu cho ngành hàng Dệt may Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh cơ hội, Dệt may Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức nhất định. Vinatex đối diện và giải quyết những thách thức trên ra sao?
Trong số những ngành kinh tế xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam như dệt may, da giầy, thủy sản thì Dệt may là ngành xuất khẩu lớn nhất và có thị trường xuất khẩu khá tập trung trong khối các nước TPP, với Mỹ (49% kim ngạch XK), Nhật (13% kim ngạch XK) nên sẽ có nhiều thuận lợi khi Việt Nam tham gia Hiệp định TPP.
Hiệp định TPP có hiệu lực về cơ bản, thương mại hàng hóa giữa các nước thành viên sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan, nhiều dòng thuế sẽ được giảm dần về 0%. Cụ thể, mức thuế suất trung bình mà Hoa Kỳ đang áp dụng đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam tính trên giá FOB là trên 17%. Đây là mức thuế cao đáng kể và sẽ được cắt giảm theo Hiệp định. Tuy nhiên, để được hưởng những ưu đãi về thuế theo Hiệp định TPP, hàng dệt may Việt Nam cần đáp ứng quy tắc xuất xứ. Hiện nay các bên đang đàm phán về quy tắc xuất xứ “yarn forward” (quy tắc từ sợi trở đi). Như vậy, những đơn vị có chuỗi cung ứng hoặc khả năng quản trị, tham gia các chuỗi cung ứng từ Sợi - Dệt nhuộm - May mặc sẽ có điều kiện tốt nhất để chủ động khai thác lợi ích từ việc cắt giảm thuế quan theo Hiệp định.
Đối với Vinatex, đã từ lâu chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề liên kết chuỗi, nâng cao giá trị gia tăng, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong hệ thống các công ty của Tập đoàn, chứ không phải mãi đến gần đây, khi Việt Nam tham gia đàm phán các Hiệp định TMTD chúng tôi mới chú ý. Vinatex chú trọng nâng cao chất lượng chuỗi liên kết nội tại giữa các doanh nghiệp trong Tập đoàn (Sợi - Dệt - Nhuộm hoàn tất - May), kết hợp với các dự án đầu tư mới, tạo sức mạnh tổng hợp, tăng sức cạnh tranh của Tập đoàn nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng, chủ động chuyển từ hình thức gia công CMT như trước đây sang làm hàng FOB, ODM (chủ động từ khâu Thiết kế) để gia tăng thị phần cũng như kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên để làm được điều này đòi hỏi Tập đoàn phải làm chủ được công nghệ và nguyên phụ liệu. Do vậy việc đẩy mạnh áp dụng công nghệ mới nhằm rút ngắn quá trình sản xuất đang là ưu tiên trong chiến lược phát triển của Tập đoàn. Mặt khác, Tập đoàn cũng cần tập trung phát triển năng lực quản trị chuỗi và khâu thiết kế, trước hết là thiết kế kỹ thuật để thực hiện phương thức sản xuất ODM, sau đó đến thiết kế thời trang đáp ứng thị trường. Đồng thời, có những giải pháp nâng cao năng suất lao động, cũng như thu nhập cho người lao động để ổn định được đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao.
Ông nhận định như thế nào về khả năng tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ khi Hiệp định TPP được thông qua? Vinatex sẽ đón bắt cơ hội từ TPP khai thác tiềm năng tại thị trường Hoa Kỳ như thế nào?
Ngành Dệt may xuất khẩu của Việt Nam có thị trường rất tập trung trong khối các nước tham gia TPP; đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ chiếm tới 49% kim ngạch xuất khẩu). Như vậy, khi hiệp định TPP được thông qua sẽ tạo nhiều thuận lợi mới cho Dệt may Việt Nam. Đơn cử, đề cập tới lợi ích cắt giảm thuế tới Mỹ, khoảng 1000 dòng thuế dệt may nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam có thể được giảm từ mức thuế Tối huệ quốc MFN như hiện nay từ khoảng 17% xuống còn 0%.
Một số dòng tiêu biểu mà Việt Nam đang xuất khẩu có kim ngạch lớn, hiện tại chịu thuế suất cao vào thị trường Hoa Kỳ, sẽ được hưởng lợi tốt khi TPP có hiệu lực, đơn cử HS 61102020 (áo len chui đầu phụ nữ/bé gái, chất liệu bông- hiện đang chịu mức thuế áp là 16,5%), HS 61103030 (áo len chui đầu xơ nhân tạo- hiện đang chịu mức thuế áp là 32%), HS 62046240 (quần nữ/bé gái dệt thoi, chất liệu bông- hiện đang chịu mức thuế 16,6%); HS 62034240 (quần dệt thoi nam/bé trai, chất liệu bông, hiện đang chịu mức thuế 16,6%)..vv.
Với đà tăng trưởng hiện nay, dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam trong năm 2015 ước đạt 28,3 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2014. Dệt May Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung xuất khẩu và chiếm lĩnh thị phần tại các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc. Dự kiến trong năm 2015, kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam tại Mỹ là 11,5 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ 2014. Dự báo tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong vài năm tới đây, sau khi Hiệp định TPP có hiệu lực có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng cao 15-20%/năm. Với tốc độ tăng trưởng tăng nhanh và đều qua các năm gần đây, cộng với khả năng Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực vào năm 2016, thị phần của Việt Nam trên thị trường Mỹ tiếp tục khẳng định vai trò là nhà xuất khẩu lớn thứ 2 vào thị trường Mỹ, cùng lúc thu hẹp khoảng cách với nhà cung cấp lớn nhất hiện nay trên thị trường Mỹ là Trung Quốc.
Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tăng sức cạnh tranh của ngành nhằm đón bắt các cơ hội từ TPP. Cụ thể, năm 2014, Tập đoàn triển khai 51 dự án với tổng mức đầu tư 8.037 tỷ đồng, tổng giá trị giải ngân ước đạt 1.151 tỷ đồng. Trong đó, có 14 dự án sợi, 15 dự án dệt với tổng mức đầu tư đạt 4.469 tỷ đồng, giá trị giải ngân đạt 859 tỷ đồng, năng lực dự kiến tăng thêm 3.800 tấn sản phẩm/năm. Một số dự án triển khai trọng điểm trong năm như: Nhà máy sợi Vinatex - Hồng Lĩnh 3 vạn cọc sợi, dự án Nhà máy Wash Tam Quan Bình Định (quy mô 4,5 triệu sp/năm) đã đi vào hoạt động, dự án sản xuất vải Yarndyed phía Nam (quy mô 10 triệu mét/năm...). Trong nâm 2015 Tập đoàn dự kiến triển khai thêm 10 dự án sợi, 6 dự án vải dệt kim, 5 dự án vải dệt thoi, 2 dự án may dệt kim với công suất 25,4 triệu sản phẩm/năm và 9 dự án may dệt thoi với công suất 34,9 triệu sản phẩm/năm.
Ông đánh giá như thế nào về những kết quả đạt được của Ngành Dệt may Việt Nam từ khi mở cửa thị trường; đặc biệt từ dấu mốc quan trọng năm 1995 Việt Nam – Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao?
Nhìn lại quá trình mở cửa thị trường, trải qua các mốc quan trong như việc Bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ (1995), Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA 2001), Hiệp định Dệt may song phương (2003), Cơ chế giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ (2007), Tham gia WTO, Đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do quan trọng (Asean, Asean +, Hiệp định TPP, Hiệp định Việt Nam- Hàn Quốc, EVFTA, Hiệp định Việt Nam- EU, Hiệp định Việt Nam với Liên minh Hải quan Nga, Belarus, Khazacstan..vv). Thực tiễn đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh mà sau này là Tập đoàn phải đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe trong các đơn hàng của khách hàng quốc tế. Các yêu cầu này rất cụ thể về chất lượng, số lượng, giá cả, thời gian giao hàng, chính sách và điều kiện lao động, trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường…Muốn đáp ứng được các yêu cầu này, các doanh nghiệp trong Tập đoàn nói riêng và các doanh nghiệp trong ngành nói chung đã chủ động xác lập các yếu tố còn yếu, chủ động tiếp cận khách hàng và các đối tác quốc tế.
Với nỗ lực và sáng tạo trong đầu tư và tiếp cận thị trường, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may Việt Nam liên tục tăng cao, trước thời điểm gia nhập WTO năm 2007, từ mức 5,9 tỷ USD của năm 2006 lên mức 24,5 tỷ USD trong năm 2014, đạt tăng trưởng trung bình 19,4%/năm. Về phía Vinatex, hàng năm Tập đoàn đã đóng góp khoảng 15-16% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam là nước cung cấp hàng may mặc nằm trong top 5 trên thế giới, đứng thứ 2 trên thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản và top 5 ở thị trường EU.
Với tư cách là Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ông có kiến nghị gì với Chính phủ để tạo thuận lợi cho Ngành Dệt may Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ?
Để ngành dệt may Việt Nam vươn sâu rộng hơn nữa vào thị trường Hoa Kỳ, Tập đoàn Dệt May Việt Nam cùng với Hiệp hội Dệt May Việt Nam có kiến nghị một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Chính phủ cần xác định quy hoạch địa bàn, quy mô và vị trí của ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân; xây dựng hoàn thiện hơn các cơ chế và chính sách hỗ trợ ngành dệt may, công nghiệp phụ trợ phát triển.
Thứ hai: Tiếp tục thúc đẩy đàm phán Hiệp định TPP, trong đó đặc biệt quan tâm đến vấn đề dệt may, tạo cơ chế tốt nhất để ngành dệt may Việt Nam được hưởng các ưu đãi vế thuế quan mà vẫn thỏa mãn các điều kiện về quy tắc xuất xứ, hạn chế các hàng rào phi thuế quan.
Thứ ba: Xây dựng cơ chế tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia tích cực, chủ động hơn nữa trong việc tư vấn, phối hợp chặt chẽ với Chính phủ trong quá trình đàm phán và thực thi các FTA kể trên;
Thứ tư: Hỗ trợ tổ chức các đoàn XTTM sang thị trường Mỹ, tiếp cận trực tiếp với khách hàng, hỗ trợ tổ chức các đoàn tham gia các hội chợ nổi tiếng về dệt may ở Mỹ như Hội chợ “Sourcing at Magic”…
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI