Sức ép cải cách thế chế kinh tế

16:19:52 | 14/9/2015

Việt Nam đang đứng trước sức ép cần khẩn trương cải cách để tránh nguy cơ tụt hậu. Cảnh báo được các chuyên gia thuộc các viện nghiên cứu về quản lý, kinh tế liên tục nhắc lại trong các diễn đàn gần đây.

Tụt hậu

“Tụt hậu là thực tế mà không còn là nguy cơ nữa” là đánh giá của TS. Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Ông cho rằng tương quan vị trí của Việt Nam trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới cho thấy chúng ta đã tụt hậu xa hơn ở một số lĩnh vực. Thực tế đó được chứng minh bằng chính các số liệu thống kê mới được Tổng Cục Thống kê công bố: GDP bình quân đầu người của Việt Nam 2014 đạt 2.052 USD, gấp 21 lần năm 1990, nhưng chỉ tương đương mức GDP bình quân: Malaysia (năm 1988); Thái Lan (năm 1993); Indonesia (năm 2008); Philippin (năm 2010); Hàn Quốc (1982). So sánh theo cách khác: GDP bình quân đầu người của Việt Nam bằng 3/5 của Indonesia, 2/5 của Thái Lan, 1/5 của Malaysia, 1/14 của Hàn Quốc và bằng 1/27 của Singapore. Như vậy GDP bình quân đầu người Việt Nam đi sau Hàn Quốc khoảng 30-35 năm; Malaysia 25 năm; Thái Lan 20 năm; Indonesia và sau Philippines 5-7 năm.


Về cơ cấu kinh tế và các cân đối vĩ mô được Tổng cục Thống kê nhận định đã chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm, tỷ trọng nông nghiệp còn lớn so với một số nước trong khu vực. Phân tích sâu hơn cho thấy các cân đối vĩ mô có xu hướng lệch một cách thiếu tích cực. Cụ thể: tỷ lệ tiết kiệm so với GDP luôn thấp hơn tỷ lệ đầu tư so với GDP và đang có xu hướng giảm dần từ 28,94% năm 2005 xuống còn 27% vào năm 2013. Trong khi đó tình trạng bội chi ngân sách và nợ công lại có xu hướng tăng lên gần đây làm mất cân đối tài khóa. Tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP xếp thứ 9 trong khu vực ASEAN đã nhảy vọt lên vị trí thứ 5 vào năm 2013.

Thị trường tài chính phát triển tương đối thấp và còn nhiều bất ổn so với một số nước trong khu vực. Điều này thể hiện ở giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu của các công ty niêm yết của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Trong năm 2012, con số này của 32,9 tỷ USD trong khi Malaysia là 476,3 tỷ USD, Singapore 414,1 tỷ USD, Indonesia 396,8 tỷ USD, Thái Lan 383 tỷ USD, Philippine 264,1 tỷ USD.

Bên cạnh đó, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả nền kinh tế thấp so với các nước trong khu vực, thể hiện ở chi phí đầu vào cho sản xuất có xu hướng tăng dần qua các năm từ 1996 trở lại đây. Mức tiêu hao năng lượng cho sản xuất có xu hướng tăng trong khi hiệu quả sử dụng năng lượng, hiệu quả đầu tư các nguồn vốn cũng như đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp cho tăng trưởng lại thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Khoảng cách tương đối về Năng suất lao động với các nước ASEAN đã được thu hẹp dần song khoảng cách tuyệt đối so với một số nước thuộc nhóm phát triển trong khu vực lại gia tăng mạnh. Trong bối cảnh xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng thì sự tụt hậu này sẽ là một tình thế đầy nguy hiểm và thách thức cho phát triển – TS. Trần Đình Thiên cảnh báo.

Cải cách thị trường và cơ cấu Chính phủ

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, bản chất phiên bản đổi mới lần này là nâng cấp chất lượng của nền kinh tế Việt Nam theo hướng nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập; bởi “chúng ta đang đứng trước tình trạng không còn đường lùi”. Ông Trần Đình Cung cho rằng, cần thực hiện nghiêm túc các nội dung cải cách thị trường và hoạt động quản lý nhà nước.

Cần phát triển toàn diện các loại thị trường, đặc biệt là thị trường vốn, đất đai, tài nguyên và đảm bảo về thể chế để các thị trường này vận hành hiệu quả. Cần thu hẹp phạm vi quy mô của Nhà nước và đổi mới toàn diện quản trị quốc gia gồm đổi mới vai trò chức năng của nhà nước phù hợp và bổ sung cho kinh tế thị trường đầy đủ và hội nhập, đổi mới cơ cẩu tổ chức nhà nước, đặc biệt là cơ cấu Chính phủ, các bộ và cơ quan thuộc bộ máy Chính phủ - ông Cung khuyến cáo.

Ngay trong giai đoạn 2016-2020, các chuyên gia thống nhất quan điểm cho rằng cần tập trung các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; cải cách toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh, về quản lý chuyên ngành xuất khẩu và nhập khẩu, về thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, đất đai, xây dựng và môi trường… Thông qua các cải cách đó để để thiết lập hệ thống khuyến khích lành mạnh thay thế hệ thống khuyến khích sai lệch hiện nay, tạo điều kiện để nguồn lực được phân bổ và sử dụng bởi thị trường, theo tín hiệu của thị trường cạnh tranh công bằng thay cho tín hiệu của thị trường méo mó và thân hữu hiện tại.

Nguyễn Thanh