PCI tạo động lực thúc đẩy các địa phương nâng cao tính cạnh tranh

14:47:34 | 19/10/2015

Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2014 được VCCI và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) công bố vào quý I/2015 đánh dấu chặng đường 10 năm PCI xây dựng và phát triển. Chỉ số PCI được đánh giá là đã tạo ra cuộc đua tranh, thúc đẩy các địa phương thay đổi nhanh hơn, hành động nhiều hơn trong việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế VCCI xung quanh vấn đề này. Quỳnh Anh thực hiện.

Thưa ông, Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đã tạo ra nhiều thay đổi quan trọng. Ông có thể cho biết những thay đổi lớn đó đã có ảnh hưởng thế nào đến tư duy và hành động của các cấp chính quyền địa phương?

Trong 10 năm qua, PCI đã góp phần thay đổi tư duy về điều hành của chính quyền địa phương. Nếu trước đây các địa phương vẫn cho rằng vị trí địa lý, sự phát triển về cơ sở hạ tầng… là điều quan trọng thì PCI đã khẳng định tăng cường chất lượng điều hành sẽ tạo ra động lực phát triển của khu vực doanh nghiệp và thu hút đầu tư.

PCI cũng đã tạo ra công cụ giám sát hiệu quả, tiếng nói của doanh nghiệp được đề cao. Mục tiêu quan trọng của chính quyền là phải hướng đến sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp. Đây là mục tiêu tối thượng của mọi cuộc cải cách, và là công trình nghiên cứu đầu tiên lượng hóa được các chỉ số về sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp với các cấp chính quyền.

Ngoài ra, PCI tạo ra động lực cho sự thay đổi. Không khó để nhận ra là hiếm có công trình nào thúc đẩy sự thay đổi, không chỉ thái độ mà còn là hoạt động cụ thể của chính quyền như PCI. Rất nhiều sáng kiến mới cải cách đã được các địa phương thực hiện từ PCI.

Đặc biệt, PCI đã thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ giữa các địa phương. PCI đã khẳng định một điều giản dị, trong khung khổ thể chế chung, đã có những tỉnh thành phố làm tốt, có những bài học thành công. Các địa phương khác đều có thể học hỏi và chia sẻ từ những bài học thành công này. 10 năm qua, PCI đã giúp lan toả những kinh nghiệm tốt và thành công này trong các địa phương ở Việt Nam.

Báo cáo PCI năm 2014 có điểm sáng gì đáng chú ý, thưa ông?

Chỉ số PCI gồm 10 chỉ số thành phần, phản ánh các lĩnh vực điều hành kinh tế có tác động đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Một địa phương được coi là có chất lượng điều hành tốt khi có: 1) chi phí gia nhập thị trường thấp; 2) tiếp cận đất đai dễ dàng và sử dụng đất ổn định; 3) môi trường kinh doanh minh bạch và thông tin kinh doanh công khai; 4) chi phí không chính thức thấp; 5) thời gian thanh tra, kiểm tra và thực hiện các quy định, thủ tục hành chính nhanh chóng; 6) môi trường cạnh tranh bình đẳng; 7) lãnh đạo tỉnh năng động, sáng tạo trong giải quyết vấn đề cho doanh nghiệp; 8) dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, chất lượng cao; 9) chính sách đào tạo lao động tốt; và 10) thủ tục giải quyết tranh chấp công bằng, hiệu quả.

Giống như các báo cáo trước, báo cáo PCI năm 2014 tập hợp tiếng nói của 9.859 doanh nghiệp dân doanh đang hoạt động trên khắp 63 tỉnh, thành phố Việt Nam. Báo cáo cũng phản ánh ý kiến của 1.491 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, với mong muốn đưa cuộc cạnh tranh về chất lượng điều hành cấp tỉnh lên bối cảnh rộng lớn hơn, Việt Nam phải là một điểm đến hấp dẫn về đầu tư quốc tế.

Một trong những điểm sáng của điều tra PCI 2014 là dấu hiệu khởi sắc về môi trường kinh doanh. Cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều lạc quan hơn về triển vọng kinh doanh trong thời gian tới. Cụ thể, có tới 46,1% doanh nghiệp dân doanh dự kiến sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong vòng 2 năm tới, tăng mạnh so với mức 32,5% của điều tra năm 2013. Tỷ lệ này ở các doanh nghiệp FDI là 50%. Lần đầu tiên trong 5 năm công bố báo cáo PCI gần đây, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp về triển vong kinh doanh có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ.

Tỉ lệ doanh nghiệp trong nước tăng quy mô đầu tư vốn đã tăng trở lại (10,8%) sau hai năm giảm xuống mức thấp nhất. Lần đầu tiên trong vòng 9 năm, quy mô vốn trung bình của doanh nghiệp đã tăng đến mức cao nhất, trung bình là 15,1 tỉ đồng, gấp đôi so với quy mô của năm 2006. Tỷ lệ doanh nghiệp tuyển dụng thêm lao động cũng tăng gần gấp đôi (11,5%) so với mức chạm đáy năm 2012 và 2013.

Những lĩnh vực nào được cải thiện đáng kể và lĩnh vực nào không có sự tiến triển trong đánh giá của PCI 2014, thưa ông?

Những lĩnh vực cải thiện cụ thể trong khảo sát PCI là: Gia nhập thị trường, Tính minh bạch, Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, Đào tạo lao động và Chi phí thời gian. So với kết quả chỉ số PCI năm trước, một tỉnh trung vị cho thấy: thời gian chờ đợi của doanh nghiệp để chính thức đi vào hoạt động giảm đi; Chất lượng và hiệu quả vận hành của các bộ phận Một cửa tăng lên; Doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào quá trình hoạch định chính sách, vai trò của các hiệp hội địa phương được khẳng định; Mức độ hài lòng về chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp và đào tạo lao động tăng lên.

Tuy nhiên, điều tra PCI 2014 cho thấy những sụt giảm đáng lo ngại ở lĩnh vực: Chi phí không chính thức, Tính năng động và Tiếp cận đất đai. Đánh giá cả ba lĩnh vực này, doanh nghiệp tại tỉnh trung vị thể hiện sự sụt giảm ở hầu hết các tỉnh, thành phố.

Các DN có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá thế nào về môi trường kinh doanh tại Việt Nam qua điều tra trong báo cáo, thưa ông?

Cảm nhận của 1.491 doanh nghiệp FDI trong báo cáo PCI 2014 cho thấy, Việt Nam tiếp tục được đánh giá tốt ở các lĩnh vực như: nguy cơ bị thu hồi tài sản thấp, ổn định chính sách và khả năng tham gia vào quá trình hoạch định các chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới họ. Việt Nam cũng được đánh giá khá tốt về mức thuế so với các quốc gia cạnh tranh.

Cũng như khảo sát trước, khoảng nửa số doanh nghiệp FDI, trước khi lựa chọn Việt Nam, đã từng cân nhắc đầu tư vào nước khác (chủ yếu là Trung Quốc (20,5%), Thái Lan (18%) và Campuchia (13,9%)). Những tỷ lệ lựa chọn quốc gia khác cạnh tranh với Việt Nam đều tăng so với năm 2013. Sự gia tăng này tự thân nó là một chỉ báo quan trọng về lợi thế của Việt Nam trong mắt nhà đầu tư quốc tế. Việt Nam dường như không còn là điểm đến được ưu ái nhất đối với các nhà đầu tư quốc tế như giai đoạn 2007-2010, mà hiện giờ đang phải cạnh tranh với các đối thủ truyền thông trong khu vực (như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia) và một số nước mới nổi như Lào, Myanmar...

Khi so sánh Việt Nam với các nước khác đang cân nhắc đầu tư, các doanh nghiệp FDI đều chia sẻ chung cảm nhận là môi trường kinh doanh của Việt Nam đang kém hấp dẫn hơn các quốc gia cạnh tranh về chi phí không chính thức, gánh nặng quy định, chất lượng dịch vụ hành chính công (giáo dục, y tế) và chất lượng của cơ sở hạ tầng.

Đặc biệt, để đưa ngành công nghiệp của Việt Nam lên vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu, thì lực lượng lao động có tay nghề chuyên môn cao đóng một vai trò quan trọng. Điều đáng tiếc là, cung lao động có tay nghề cao ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn được cầu của thị trường.

Từ năm 2010 đến năm 2014, các doanh nghiệp FDI đã phải đào tạo thêm đến 20% - 35% số lao động mới tuyển dụng, chiếm khoảng 3,6 - 7,8% chi phí kinh doanh. Dù khoảng cách giữa trình độ tay nghề và nhu cầu doanh nghiệp đã giảm dần trong giai đoạn 2010-

2013, nhưng năm 2014 là một năm đáng chú ý khi tỷ lệ nhân viên mới có kỹ năng kém và chi phí đào tạo gia tăng trở lại. Với một số ngành, chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo nghề được đánh giá là chưa đáp ứng được yêu cầu. Doanh nghiệp FDI trong một số ngành có thể phải tự đầu tư bổ sung đào tạo cho lao động mới tuyển cả những kỹ năng cơ bản và kiến thức chuyên môn. Đây là lĩnh vực mà Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều và chúng tôi nhận thấy Chính phủ đang nhận thấy rõ được vấn đề này và đang có những chương trình hành động khá quyết liệt.

Theo ông, để nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như môi trường kinh doanh thông thoáng, các cấp chính quyền địa phương cần phải làm gì?

Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các cấp chính quyền, việc tiến hành những điều tra doanh nghiệp độc lập và khách quan để đánh giá chất lượng của điều hành, thực hiện thủ tục hành chính cần phải là việc làm thường xuyên. Ban hành được một chính sách tốt là điều cần thiết nhưng giám sát để đảm bảo chính sách tốt đó thực hiện đều khắp và thống nhất trên thực tiễn là yêu cầu hết sức cần thiết.

Do vậy, trong thời gian tới, trong một số lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm với doanh nghiệp như lĩnh vực thuế và hải quan, cần phải tiến hành những điều tra, đánh giá, thu thập ý kiến doanh nghiệp một cách độc lập và khoa học. Vừa cung cấp thông tin về thực tiễn thi hành, vừa tạo ra động lực cần thiết thúc đẩy sự thay đổi.