Động lực phát triển mới

14:25:56 | 21/12/2015

Năm 2016, tăng trưởng kinh tế sẽ hồi phục bởi các yếu tố hỗ trợ của giá hàng hóa thấp, lực đẩy từ các doanh nghiệp FDI cùng với các cải cách về thể chế của nền kinh tế.

Một số chỉ tiêu chủ yếu của năm 2016 được Quốc hội tán thành là tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,7%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%, tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu dưới 5%. Tốc độ tăng giá tiêu dùng được chốt dưới 5%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 31% GDP, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%...

Dự báo tăng trưởng GDP trong 5 năm tới sẽ ở mức 6,5 – 7%; kiểm soát lạm phát trong khoảng 5 – 7% và bội chi ngân sách nhà nước đến năm 2020 cũng giảm còn 4,8% GDP.


Kinh tế bắt đầu chu kỳ hồi phục hồi

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 đánh giá kinh tế tiếp đà phục hồi ổn định với tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2015. Chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm và tương đối ổn định là điều kiện để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trong những năm tiếp theo.


Hồi đầu tháng 12/2015, cuộc hội thảo khoa học quốc tế “Dự báo tình hình kinh tế - xã hội phục vụ lập kế hoạch trung hạn trong bối cảnh hội nhập quốc tế” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức cũng tập hợp nhiều ý kiến lạc quan cho kinh tế Việt Nam năm 2016. Đây là năm được đánh giá bắt đầu chu kỳ hồi phục mới của kinh tế, mặc dù vẫn còn nhiều thách thức.


Tiến sĩ Đặng Đức Anh, Ban Phân tích và Dự báo, Trung tâm thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, đã đưa ra 3 kịch bản về triển vọng kinh tế Việt Nam 2016 – 2020. Theo kịch bản cơ sở, giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ đạt mức 6,67%/năm và lạm phát khoảng 4,58%. Ở kịch bản lạc quan hơn, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ đạt mức 7,04% và lạm phát khoảng 6,1%. Trường hợp xấu nhất, nền kinh tế trong nước đối mặt với tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới; rủi ro nợ công và hệ thống tài chính ngày một lớn và tiếp tục mô hình tăng trưởng kinh tế theo kiểu cũ. Theo đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 6%, thấp hơn lạm phát là 7%.

Còn theo báo cáo "Dự báo triển vọng tại các thị trường tăng trưởng nhanh" được Ernst & Young công bố, mức tăng GDP của Việt Nam dự kiến đạt 7% vào năm 2016, nhờ nỗ lực của Chính phủ trong giảm thâm hụt tài khóa và lạm phát, hạ lãi suất cho vay. Dịch chuyển mạnh mẽ của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam sẽ làm dịu đi những lo ngại của nhà đầu tư về tính ổn định của đồng nội tệ, bất chấp thâm hụt thương mại sẽ tăng trở lại vào năm 2015.


Tạo động lực phát triển mới

Triển vọng kinh tế lạc quan hơn, song nền kinh tế cũng đối mặt với nhiều thách thức hơn. Trong 5 năm vừa qua, tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã giảm 5 - 6 điểm phần trăm so với giai đoạn trước. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế vẫn dựa vào vốn đầu tư là chủ yếu chứ chưa dựa vào năng suất và chất lượng. Lĩnh vực nông nghiệp được đánh giá đã tiếp cận trần tăng trưởng, cạn dư địa tăng trưởng. DN phá sản, dừng hoạt động trên 100.000 trường hợp trong vài năm qua do kinh tế khó khăn. Tình trạng thâm hụt ngân sách nhiều năm vẫn nặng nề. Những thách thức đến từ nội tại nền kinh tế đòi hỏi những quyết sách mạnh mẽ chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Cộng đồng kinh tế ASEAN hình thành và các hiệp định thương mại tự do được triển khai sẽ tạo ra điều kiện quan trọng trong phát triển kinh tế, nhưng cũng gây ra những khó khăn, thách thức trong phát triển thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh của DN. Giá dầu thô giảm sâu và giá các nguyên liệu, khoáng sản đi xuống cũng tác động lên những nước đang phát triển có mức độ phụ thuộc lớn vào xuất khẩu tài nguyên như Việt Nam. Các nền kinh tế mới nổi cũng sẽ gặp khó khăn để ứng phó với sự giảm giá của đồng nội tệ so với USD.

Một yếu tố khác có sức ảnh hưởng lớn là Trung Quốc với vai trò là đối tác thương mại lớn.  Nửa cuối năm 2015, đồng nhân dân tệ giảm giá khiến Ngân hàng Nhà nước phải điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng thêm 1% và nới biên độ điều chỉnh từ +/-1% lên +/-3%.

Động lực cho kinh tế trong năm tới còn đến từ quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN, tham gia AFTA và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 2015, Việt Nam trở thành thành viên chính thức cùng với 12 quốc gia ven bờ Thái Bình Dương của TPP.

Có thể nói, Việt Nam đã tiến khá nhanh trong quá trình hội nhập quốc tế và mức độ hội nhập kinh tế của Việt Nam rất cao, chỉ kém Singapore. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO cũng như nhiều định chế tài chính tiền tệ quốc tế như WB, ADB, IMF… Chủ động hội nhập với mục tiêu bảo đảm tương lai tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế Việt Nam, vừa là động lực vừa là thách thức rất lớn.

Lê Minh