Hội nhập sâu rộng qua các FTA: Thời cơ và thách thức
11:08:56 | 6/1/2017
Việt Nam gia nhập WTO trong năm 2007, và trong những năm qua đã ký một loạt hiệp định thương mại tự do song phương với những nước như Nhật Bản, Chile, Hàn Quốc và những hiệp định trong khuôn khổ ASEAN với Ấn Độ, Trung Quốc, Australia, Nhật Bản, v.v... Tính đến năm 2016, Việt Nam có quan hệ thương mại với khoảng 230 quốc gia, vùng lãnh thổ. Việc hội nhập sâu rộng qua việc ký kết các FTA mang lại cho VN cơ hội phát triển to lớn nhưng cũng nhiều thách thức…
Gần đây nhất Việt Nam đã ký kết 3 hiệp định quan trọng, có thể là một bước ngoặt lớn cho công cuộc hội nhập, đó là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Liên minh kinh tế Á- Âu; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu (EAEU - bao gồm các nước Liên bang Nga, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa Armenia và Cộng hòa Kyrgyzstan) được ký kết ngày 29/5/2015 và có hiệu lực từ ngày 05/10/2016.
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu (VN-EAEU FTA) cho phép Việt Nam là quốc gia duy nhất trong thời điểm này được hưởng ưu tiên thương mại với Liên minh kinh tế Á-Âu. Về tổng thể, hai bên dự kiến sẽ dành cho nhau mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm khoảng 90% số dòng thuế, tương đương vào khoảng trên 90% kim ngạch thương mại song phương.
Hiện kim ngạch thương mại giữa các nước thành viên EAEU với Việt Nam đang ở mức thấp. Kim ngạch song phương trung bình giữa EAEU, dân số khoảng 183 triệu người, và Việt Nam, dân số khoảng 93 triệu, vào khoảng 4 tỷ USD. Việc ký FTA có thể giúp tăng kim ngạch thương mại lên 10-12 tỷ USD/năm vào năm 2020. Theo ước tính của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh sẽ tăng khoảng 18-20% hàng năm.
Những nội dung về Sở hữu trí tuệ, Cạnh tranh, Phát triển bền vững... của Hiệp định chủ yếu mang tính hợp tác và không vượt quá những cam kết của Việt Nam trong WTO và tại các FTA đã ký hoặc đang đàm phán, tạo khung khổ để hai bên có thể xem xét hợp tác sâu hơn khi thấy phù hợp.
Việt Nam và EU kết thúc đàm phán Hiệp định EVFTA vào tháng 12/2015 là một bước tiến quan trọng trong lộ trình tăng cường quan hệ song phương toàn diện và sâu sắc, đặc biệt là quan hệ thương mại, đầu tư. Với mức độ cam kết đạt được, EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, đảm bảo cân bằng lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời Hiệp định được kỳ vọng sẽ tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ thương mại và đầu tư giữa hai bên. Bên cạnh đó, với tính bổ sung mạnh mẽ trong cơ cấu xuất nhập khẩu, Việt Nam và EU cũng mong muốn Hiệp định EVFTA sẽ mang lại tác động tích cực cho cả hai bên, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, giúp tiếp tục ổn định an sinh-xã hội... tại mỗi bên. Để hiện thực hóa lợi ích của Hiệp định EVFTA, Việt Nam và EU đã thống nhất sẽ nỗ lực hoàn tất quá trình phê chuẩn để Hiệp định có hiệu lực vào năm 2018.
Trong hơn một thập kỷ vừa qua, quan hệ thương mại - đầu tư giữa Việt Nam và EU đã có những bước phát triển vượt bậc. Giá trị thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đã tăng gần 7 lần từ khoảng 6,3 tỷ USD vào năm 2003 lên 41,2 tỷ USD vào năm 2015, đưa EU trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt gần 31 tỷ USD và nhập khẩu từ EU vào Việt Nam đạt hơn 10 tỷ USD. Đặc điểm quan trọng trong cơ cấu xuất nhập khẩu của hai bên là tính bổ trợ nhiều hơn là cạnh tranh, đối đầu trực tiếp. Về đầu tư, EU cũng là nhà đầu tư lớn tại Việt Nam với có 1.809 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 23,16 tỷ USD, chiếm 8,7% số dự án và chiếm 8% tổng vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam.
Hiệp định EVFTA được dự kiến sẽ tạo ra "cú hích" đối với thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU. Theo đó, về thuế nhập khẩu, chỉ khoảng 42% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng mức thuế 0% và còn phụ thuộc vào cơ chế GSP, Hiệp định EVFTA có thể giúp tỷ lệ này tăng lên một cách bền vững trên 90% sau một lộ trình ổn đinh, tức là 28 tỷ USD hàng hóa xuất khẩu sang EU trong tương lai sẽ được miễn thuế. Mặt khác, Hiệp định EVFTA có các quy định, cơ chế rõ ràng và hiệu quả, liên quan đến thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, SPS, TBT, minh bạch hóa, sở hữu trí tuệ, bao gồm cả chỉ dẫn địa lý, hợp tác xây dựng năng lực, thương mại và phát triển bền vững, v.v... Với các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, mua sắm công và cam kết về chính sách đầu tư, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa chính sách, Hiệp định này sẽ thúc đẩy luồng vốn đầu tư chất lượng cao của EU vào Việt Nam.
Đáng chú ý nhất là Hiệp định TPP. Toàn bộ các quốc gia tham gia TPP chiếm gần 36% tổng GDP và hơn 1/4 thương mại toàn cầu. Việt Nam có vị thế tốt để hưởng lợi từ Hiệp định này. Theo phân tích trong báo cáo Việt Nam 2035, khi TPP đi vào thực hiện thì GDP của Việt Nam có thể tăng thêm 8% vào năm 2035. Các nhà phân tích khác ước tính Việt Nam sẽ hưởng lợi ở mức 2 chữ số, hơn nhiều so với mức hưởng lợi của hầu hết các quốc gia tham gia TPP khác. Việt Nam cũng có thể tận dụng các cam kết trong TPP để thực hiện những biện pháp cải cách chính sách mà thông thường sẽ khó thực hiện được về mặt chính trị, xã hội. Hiện nay, lãnh đạo 12 nước thành viên Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã đồng ý đẩy mạnh nỗ lực thực thi hiệp định này, bất chấp quan điểm phản đối của Tổng thống Mỹ mới đắc cử - Donald Trump.
Để tận dụng tốt lợi thế từ FTA mang lại, đồng thời hạn chế thiệt hại từ việc mở cửa thị trường theo các cam kết, Việt Nam đặt ra giải pháp trọng tâm là cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, chú trọng cấp cơ sở và đi vào thực chất, với đo lường kết quả từ các DN; tiếp tục rà soát thủ tục hành chính trong hoạt động xuyên suốt của DN; xây dựng và thực hiện các chương trình nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp địa phương…; xây dựng các chương trình, chiến lược hỗ trợ DN thực sự hiệu quả trong giai đoạn hội nhập, như xây dựng thương hiệu DN, cung cấp thông tin, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tái cấu trúc DN; xem xét lại đề án tái cấu trúc nền kinh tế Thành phố trong điều kiện mới, cần có nghiên cứu, đánh giá tác động của TPP, các FTA đến các ngành, lĩnh vực; đánh giá lại ngành nông nghiệp và chăn nuôi trong mối tương quan với các địa phương; thoái vốn dần trong các DN nhà nước, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế với những hiệp định FTA mở ra cho Việt Nam những cơ hội phát triển rất lớn, nhưng nắm bắt những cơ hội này là một thách thức to lớn đòi hỏi sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.