Năm 2016 là năm Việt Nam kết thúc ký kết, phê chuẩn, đi vào hiệu lực nhiều FTA và khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế với các đối tác thương mại lớn như: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU) chính thức có hiệu lực; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc bắt đầu đi vào thực thi; Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục tham gia đàm phán các các FTA khác và các khuôn khổ hợp tác kinh tế như ASEAN - Hồng Kông; Việt Nam - EFTA và Việt Nam - Israel; thông qua hợp tác ASEAN - Hoa Kỳ trong lĩnh vực minh bạch và quản lý tốt đầu tư quốc tế; thiết lập cơ chế đối thoại chính sách thương mại thường niên ASEAN - Canada. + Đàm phán nâng cấp và phát triển thêm các nội dung cam kết trong các FTA, các khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế đã ký kết và tham gia như các FTA của ASEAN+, WTO, APEC, ASEM, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản.
Thông qua kết quả của các FTA và các khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế đã tạo ra mức độ tự do hóa thuế quan của Việt Nam với các đối tác FTA đã giảm ở mức khá cao: Trong ATIGA đạt khoảng 93%, FTA ASEAN - Trung Quốc 84% số dòng thuế về 0%, FTA ASEAN - Hàn Quốc 78% và FTA ASEAN - Nhật Bản 62%.
Hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế đã góp phần thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại và đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Chẳng hạn theo Lộ trình tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam đã phối hợp với các nước ASEAN thông qua việc tiển khai 2 Dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ, lập cơ chế giải quyết hàng rào phi thuế quan (NTB) và tác động cản trở thương mại của các biện pháp phi thuế quan (NTM). Bộ Công Thương đã tích cực phối hợp với Tổng cục Hải quan và các cơ quan Bộ, ngành triển khai kết nối 05 thủ tục hành chính với Cơ chế một cửa quốc gia, góp phần tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Với kết quả của các FTA, thị trường nhập khẩu đã tiếp tục được mở rộng, đa dạng hóa, giảm dần sự phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu truyền thống. Qua đó, góp phần thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Trong những năm gần đây, thâm hụt thương mại của Việt Nam với các nước Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc đang ở mức cao. Chính vì thế, việc Việt Nam cần có nhiều mối quan hệ thương mại với các đối tác khác nhau để góp phần bù đắp thâm hụt thương mại, giảm sức ép lớn đối với cán cân thanh toán và giữ giá trị của đồng tiền Việt Nam. Với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU) chính thức có hiệu lực, Việt Nam sẽ được tiếp cận có tính ưu đãi đối với một thị trường chung rộng lớn và đầy triển vọng của 5 nước: Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kirgizia, với tổng GDP 2,2 ngàn tỷ USD và 183 triệu dân, áp lực thâm hụt thương mại với Trung Quốc sẽ giảm bớt.
Các FTA thúc đẩy thu hút FDI từ việc cải thiện môi trường đầu tư theo các cam kết. Các nhà đầu tư có thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị trường lớn mà Việt Nam đã ký kết FTA như khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ... Năm 2016, đầu tư FDI từ Hàn Quốc có quy mô lớn nhất do kết quả của KVFTA đã đi vào hiệu lực kể cả số lượng dự án (828) lẫn tổng vốn đầu tư (5,5 tỷ USD). Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức đi vào hoạt động, tính toán của Bộ Công Thương cho thấy, hiện thương mại nội khối AEC chỉ chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch của khối nói chung. Đối với Việt Nam, xuất - nhập khẩu với ASEAN chỉ chiếm 10% đối với tổng kim ngạch xuất khẩu và 20% nhập khẩu. Thêm vào đó, nhiều nước trong khối cũng là thành viên của WTO, nên việc mở rộng thương mại nhờ AEC cũng không tạo ra nhiều khác biệt, hay đột phá lớn trong việc khuyến khích thương mại nội khối so với bối cảnh có WTO. Vì thế, trong ngắn hạn, tác động từ AEC đối với thương mại của Việt Nam là chưa đáng kể.
Các cam kết hội nhập một mặt tạo ra cơ hội nhưng đồng thời tiếp tục tạo ra nhiều thách thức lớn đối với Việt Nam. Trong đó, các quốc gia ngày càng đưa ra các yêu cầu kỹ thuật trong xuất khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tạo ra các rào cản thương mại đối với xuất khẩu của Việt Nam.
Một thực tế đáng lo ngại là, Việt Nam đang có dấu hiệu tụt hậu, đang có trình độ kinh tế thấp hơn một số nước là đối tác thương mại quan trọng trong khối, như: Singapore, Malaysia, Indonesia… Đã vậy, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện cũng rất thấp. Theo Tổng cục Thống kê, xét về quy mô vốn, có tới 73,86% doanh nghiệp ngoài nhà nước là doanh nghiệp nhỏ, có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng. Do quy mô nhỏ, nên hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể đầu tư nhiều cho đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Sự gia tăng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước do sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, cũng như sự gia tăng của các nhà cung cấp nước ngoài do mở cửa thị trường dịch vụ. Thực tế, các doanh nghiệp FDI đã chiếm khoảng 17 % thị phần bán lẻ qua trung tâm thương mại, siêu thị; khoảng 70% thị phần bán lẻ qua cửa hàng tiện lợi; khoảng 15% thị phần của phương thức bán hàng qua siêu thị mini; và khoảng 50% thị phần bán lẻ không thông qua cửa hàng (bán hàng trực tuyến qua internet, qua truyền hình, qua điện thoại...).
Việt Nam gia nhiều FTA gia tăng nguy cơ không kiểm soát được hàng hóa nhập khẩu do các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng. Hương Giang