Đẩy mạnh phát triển ngành nông nghiệp

17:49:41 | 16/5/2017

“Các doanh nghiệp nước ngoài đang rất mong muốn đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam, tuy nhiên, nút thắt chính là xác định Việt nam sẽ bảo hộ hay mở cửa đến mức độ nào đối với ngành nông nghiệp để từ đó có các chính sách phù hợp” - là chia sẻ của ông Nguyễn Khắc Hải, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn PAN (The PAN Group) về một số nút thắt và giải pháp để phát triển ngành nông nghiệp hiện nay. Nhân dịp Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp lần thứ hai năm 2017, tạp chí VBF đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Khắc Hải về một số nội dung liên quan.

Từ thực tế hoạt động của PAN, ông đánh giá ra sao về những chuyển biến của môi trường đầu tư kinh doanh (cơ chế chính sách, thủ tục hành chính,…) sau những quyết tâm mà Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đã phát đi trong thời gian qua?

Năm 2016 là năm mà Chính phủ đã thể hiện được sự quyết tâm trong việc xây dựng một Chính phủ kiến tạo, cải thiện môi trường kinh doanh, lấy doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp, không phân biệt loại hình doanh nghiệp. Quyết tâm này của Chính phủ được cụ thể hoá bằng việc ban hành hai Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP về những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doah, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5 năm 2016 về phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, đã có một số thay đổi trong quản lý môi trường, quản lý dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng chưa có đột phá đáng kể về thủ tục quản lý Nhà nước, về đầu tư công về tổ chức bộ máy, về thủ tục hành chính nên chưa tạo ra kết quả chuyển biến rõ rệt trong các lĩnh vực này. Đồng thời, chưa có thay đổi lớn trong các chính sách để cải thiện nguồn cung cấp tài nguyên (vốn đầu tư và tín dụng, lao động, đất đai, nước, khoa học công nghệ….). Trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hậu quả của biến đổi khí hậu, năm 2016, Tập đoàn PAN vẫn duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định và tăng trưởng cao trên 20% so với cùng kỳ năm 2015.

Ông nhận định ra sao về sự cộng hưởng từ các chính sách điều hành của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đối với các hoạt động của PAN?

Những nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ trong năm 2016 trong việc định hướng xây dựng Chính phủ kiến tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư đã tạo dựng được niềm tin từ công đồng doanh nghiệp nói chung và của Tập đoàn PAN nói riêng. Tập đoàn PAN tiếp tục đẩy mạnh tái cấu trúc, chuyển đổi trọng tậm kinh doanh vào 2 mảng kinh doanh côt lõi là Nông nghiệp và Thực Phẩm bằng việc thành lập hai công ty nên tảng là PAN Food và PAN Farm với vốn điều lệ hàng nghìn tỷ đồng cho mỗi công ty nhằm tập trung và thu hút các nguồn lực từ các nhà đầu tư, đối tác để mở rộng và phát triển nhanh, cũng như để tận dụng các cơ hội kinh doanh đầy tiềm năng trong lĩnh vực Nông nghiệp và Thực phẩm. Đồng thời, hiểu rõ tầm quan trọng của việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao đối với sự phát triển nhanh và bền vững của nền nông nghiệp nước nhà, Tập đoàn cũng thành lập 2 Công ty nông nghiệp công nghệ cao là Công ty Cổ phần PAN-SALADBOWL tại tỉnh Lâm Đồng và Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao Hà Nam tại tỉnh Hà Nam.




Ông nhận định ra sao về “sức khỏe” của các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam hiện nay?

Hiện nay có trên 4000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Nông nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện chưa có các thước đo, các tiêu chí chuẩn, thông tin minh bạch để đánh giá sức khỏe và phân loại từng nhóm các công ty trong lĩnh vực Nông nghiệp. Do đó, nếu chỉ sử dụng thông tin của một vài doanh nghiệp để nhận định cho toàn bộ ngành sẽ không chính xác.

Trong vài năm gần đây ngày càng có nhiều Tập đoàn lớn như The PAN Group, Vingroup, TH Truemilk ... tham gia đầu tư vào Nông nghiệp. Đồng thời các Tập đoàn, doanh nghiệp đa quốc gia cũng quan tâm hơn đến Nông nghiệp Việt Nam. Nhìn chung, có sự hào hứng và nhiệt tình tham gia vào nông nghiệp hơn cả về phía doanh nghiệp và chính quyền các địa phương, đã có nhiều dự án, nhiều chương trình được xây dựng và khởi động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Tuy nhiên, với mức tăng trưởng GDP hơn 6% của nên kinh tế năm 2016, ngành Nông nghiệp vẫn tiếp tục đóng góp tỷ trọng thấp nhất, khoảng 0.72%, chưa có sự đột phá so với những năm trước đây mặc dù luôn được xác định là ngành chiến lược. Tỷ trọng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm 1% trên tổng số doanh nghiệp cả nước và đa phần có quy mô vốn nhỏ (dưới 5 tỷ đồng).

Các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay bị phân hóa mạnh. Nhóm các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, đầu tư bài bản, áp dụng được tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng công nghệ cao đang có lợi thế và sẽ ngày càng mở rộng quy mô phát triển không chỉ tại thị trường trong nước mà cả xuất khẩu. Nhóm các công ty này hứa hẹn có “sức khỏe” tích cực, là đầu tàu cho nền nông nghiệp Việt Nam thời kỳ mới. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp trong nhóm này còn rất khiêm tốn trong tổng số các doanh nghiệp nông nghiệp.

Đại đa số các doanh nghiệp nông nghiệp còn lại có quy mô nhỏ, manh mún, sử dụng công nghệ cũ, tư duy quản trị cũ, lạc hậu, đầu tư chủ yếu dựa vào khai thác nguồn lực tài nguyên. Các doanh nghiệp này có “sức khỏe” yếu và sẽ ngày càng gặp khó khăn, nhất là trong bối cảnh thị trường mở cửa và người tiêu dùng ngày càng khắt khe, chú trọng nhiều hơn đến các sản phẩm có thương hiệu, an toàn, chất lượng và có thể truy xuất nguồn gốc.

Theo ông, đâu là giải pháp để kết nối khối các doanh nghiệp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước nhằm tạo ra động lực tối ưu cho sự phát triển của lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

Hiện nay các doanh nghiệp nước ngoài đang rất mong muốn đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nút thắt chính là xác định Việt nam sẽ bảo hộ hay mở cửa đến mức độ nào đối với ngành nông nghiệp để từ đó có các chính sách phù hợp.

Để doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư vào nông ngiệp Việt Nam, cần phải có giải pháp để giải quyết các vấn đề chính như sau:

1. Quỹ đất để sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún. Các doanh nghiệp rất khó để tìm được quỹ đất lớn vài ngàn hecta ở các vùng có khí hậu và đất thuận lợi để xản xuất nông nghiệp. Nếu có, thì rất khó có thể tiếp cận và mất quá nhiều thời gian để giải phóng mặt bằng với chi phí giải phóng mặt bằng cao. Các doanh nghiệp mong chính quyền địa phương ứng tiền giải phóng mặt bằng trước để có quỹ đất sạch, đủ lớn sau đó cho doanh nghiệp thuê lại. Tuy nhiên, bản thân chính quyền địa phương lại gặp khó khăn vì chính quyền địa phương thường không có đủ ngân sách để ứng vốn.

2. Cơ sở hạ tầng (bao gồm hệ thống sau thu hoạch, đường giao thông, ..) chưa đồng bộ nên chi phí vận chuyển cao, hao hụt lớn. Nếu doanh nghiệp phải tự đầu tư cơ sở hạ tầng thì hiệu quả sản xuất, kinh doanh lại không cao. Do vậy, nếu Chính phủ quy hoạch các vùng nông nghiệp trọng điểm thì nên ưu tiên phát triển hệ thống hạ tầng đồng bộ thời điểm với việc kêu gọi đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài.

3. Các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp vẫn chưa được rõ ràng minh bạch, và vẫn tạo điều kiện cho cơ chế xin – cho. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp do mất quá nhiêu thời gian vào các thủ tục hành chính mà không thể chuyên tâm tập trung ngay vào sản xuất kinh doanh.

4. Các quy định về xuất, nhập khẩu cần linh hoạt hơn phù hợp với xu thế mới của nông nghiệp Việt Nam. Ví dụ, để nhập 1 giống rau, hoa mới hiện nay có thể mất vài năm đánh giá, xin cấp phép, qua quá nhiều Bộ ngành trong khi giống đó đã thương mại hóa trên toàn cầu và có nhu cầu nhập khẩu cao.

Về phía các doanh nghiệp trong nước, để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước hợp tác với doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp thì cần thực hiện các giải pháp sau:

1. Hình thành rõ chiến lược phát triển các ngành hàng chính, định rõ tổ chức luật chơi phát huy được thế mạnh của mọi tác nhân trong và ngoài nước trong chuỗi giá trị (hình thành tổ chức các hội đồng ngành hàng có quyền lực công bằng và minh bạch).

2. Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, hoặc các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Theo đó, cần ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đầu vào, thuế, phí hải quan, …

3. Nhà nước huy động hoạt động ngoại giao để tạo điều kiện hỗ trợ gặp gỡ doanh nghiệp đối tác xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại theo theo thế mạnh với từng quốc gia, tập trung vào các nước có lợi thế và kinh nghiệm phát triển nông nghiệp (Israel, Hà Lan, Úc, Newzealand, Nhật Bản,…)

Nhân dịp xuất bản chuyên đề phục vụ hội nghị TTg CP với Doanh nghiệp lần thứ 2 của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV ông có ý kiến/tham luận gì gửi tới lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ban ngành nhằm tạo ra sự chuyến biến mạnh mẽ hơn nữa trong việc hiện thực hóa chủ trương lớn “doanh nghiệp là động lực phát triển nền kinh tế của đất nước”?

Nền nông Việt Nam cần phát triển toàn diện theo hướng phát huy lợi thế, hiện đại, bền vững; sản xuất lớn; hướng về hàng xuất khẩu hoặc hàng thay thế hàng nhập khẩu với năng suất, chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Trong quá trình Chính phủ xây dựng các chính sách để hiện thực hóa chủ trương “doanh nghiệp là động lực phát triển nền kinh tế của đất nước”, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ nên xây dựng theo các định hướng sau:

- Kiến tạo và định hướng nguồn lực chứ không nên theo hướng kiểm soát và phân bổ nguồn lực. Chẳng hạn, hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo nghiên cứu gói tín dụng hỗ trợ NNCNC 60-100 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, việc triển khai cụ thể gói tín dụng này như thế nào cho hiệu quả vẫn còn là câu hỏi ngỏ và có nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Trước hết cần phải trả lời câu hỏi nguồn tiền ở đâu, cơ chế phân bổ thế nào, điều kiện nhận hỗ trợ gói tín dụng này ra sao để tránh tình trạng các doanh nghiệp lập dự án để làm sao xin được hỗ trợ mà không quan tâm đến hiệu quả thực sự của Dự án. Ở góc nhìn của mình, chúng tôi cho rằng Chính phủ nên dùng chính sách ưu đãi thuế để định hướng nguồn lực (ví dụ miễn, giảm thuế TNDN, thuế nhập khẩu các trang thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được….) thay vì phân bổ nguồn lực thông qua gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp. Đây chính là nền tảng để sản phẩm NNCNC của các doanh nghiệp có thể cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Việc ưu đãi miễn giảm thuế giúp doanh nghiệp có nguồn tài chính để tái đấu đầu tư, phát triển mạnh và bền vững.

-Tạo cơ chế tích tụ ruộng đất nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Tích tụ ruộng đất cũng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học công nghệ và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp từ đó nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm. Việc tích tụ ruống đất cần tránh việc lấy đất của dân mà nên theo hướng liên kết sản xuất, thuê đất của dân, tạo điều kiện để dân vẫn có thể làm việc trên mảnh đất của mình.

- Không nên chỉ tập tập trung vào nâng cao năng suất, sản lượng mà còn phải tập trung nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm. Các sản phẩm nông ngiệp nên tập trung vào các sản phẩm xuât khẩu và các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Có như vậy thì mới nâng cao được giá trị gia tăng của sản phẩm, mang lại lợi nhuận biên cao về cho đất nước, cho doanh nghiệp và người nông dân, giải quyết được bài toán được mùa, mất giá vốn tồn tại khá phổ biện hiện nay ở nước ta.

- Xây dựng và tạo mối liên kết chặt chẽ giữa 3 nhà: Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp và Nhà nông. Doanh nghiệp không nên cạnh tranh trực tiếp với nông dân. Thay vào đó, Doanh nghiệp cần liên kết sản xuất với nông dân bằng cách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển và áp dụng khoa học công nghệ, mang tri thức và tiến bộ khoa học công nghệ từ Nhà khoa học đến với nông dân, giúp họ áp dụng vào thực tiễn, thay đổi tập quán làm nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị các sản phẩm nông nghiêp. Chính sự liên kết này sẽ giúp doanh nghiệp phát triển bền vững, giúp người nông dân nâng thu nhập và Nhà khoa học có động lực để nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ cao.

- Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cho doanh nghiệp nông nghiệp. Thực tế, một trong những nguồn lực mà doanh nghiệp thiếu nhất lúc này không phải là nguồn vốn mà chính là nguồn nhân lực có trình độ có tay nghề cao. Một khi doanh nghiệp đã có thị trường, có nguồn nhân lực phục vụ sản xuất kinh doanh thì lúc đấy sẽ có rất nhiều nhà đầu tư cả trong và ngoài nước sẵn sàng đầu tư hợp tác với doanh nghiệp.

Xin cảm ơn ông!