Đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) được ban hành, nhưng ngành CNHT của Việt Nam phát triển chưa như kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân đó là do chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho CNHT chưa rõ ràng. Tạp chí Vietnam Business Forum xin giới thiệu bài viết của ông Bùi Tuấn Minh, Phó Tổng Giám đốc Deloitte Việt Nam.

Ông Bùi Tuấn Minh, Phó Tổng Giám đốc Deloitte Việt Nam
Chính sách khuyến khích phát triển CNHT CNHT là ngành sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh - được xem là nền tảng, xương sống giúp cho ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp sản phẩm cuối cùng có thể phát triển bền vững và ổn định.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành CNHT, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đa dạng cho doanh nghiệp CNHT như tiếp cận tín dụng, ưu đãi thuế xuất - nhập khẩu; Chính phủ đã có Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016 đến năm 2025 và Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển…
Đặc biệt, năm 2014, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (Luật số 71), lần đầu tiên đưa ra quy định ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế suất 10% trong vòng 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo kể từ khi có thu nhập chịu thuế) cho dự án đầu tư sản xuất CNHT.
Gần đây nhất, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 đã thực hiện nguyên tắc thực hiện Chính phủ kiến tạo, lấy doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, tạo thuận lợi và đảm bảo quyền bình đẳng cho doanh nghiệp trong đầu tư, kinh doanh.
Có thể nói, các chủ trương hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp nói chung và chính sách về CNHT nói riêng của Việt Nam khá đầy đủ.
Hiệu quả chưa như kỳ vọng Cụ thể, theo Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016 đến năm 2025, thì đến năm 2020, sản phẩm CNHT trợ đáp ứng khoảng 45%; đến năm 2025, đáp ứng được 65% nhu cầu cho sản xuất nội địa. Vào năm 2020, tỷ lệ cung cấp nguyên vật liệu và phụ liệu phục trong nước của ngành công nghiệp dệt may đạt 65%, ngành da giày đạt 75-80%. Đến năm 2020, đáp ứng 35% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển và sẽ được nâng lên 55% vào năm 2025.
Nhưng hiện tại, linh kiện, phụ tùng kim loại mới đáp ứng được 15-25% nhu cầu linh kiện cho sản xuất ô tô, khoảng 20% cho sản xuất thiết bị đồng bộ; lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử mới đáp ứng được 30-35% nhu cầu linh kiện điện tử gia dụng; tỷ lệ nội địa hóa đối với xe ô tô 9 chỗ ngồi mới đạt bình quân khoảng 7-10%; tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản phẩm dệt may cũng mới chỉ đạt 50% do nguyên vật liệu và phụ liệu phần lớn phải nhập khẩu, trong khi đó, gần 80% nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành da giày phải nhập khẩu.
Nguyên nhân Với tư cách là nhà tư vấn thuế ở Việt Nam tiếp cận với nhiều doanh nghiệp, tác giả bài viết cho rằng, nguyên nhân cơ bản ở việc ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp với CNHT chưa rõ ràng. Mặc dù chính sách đã được quy định tại Luật số 71, với nhiều ưu đãi cho CNHT, nhưng vẫn khó đi vào cuộc sống.
Vốn liếng, nhân lực, công nghệ, trình độ quản lý không đáng ngại nếu thu hút được doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực CNHT tái đầu tư, mở rộng từ lợi nhuận sau thuế tăng lên nhờ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Quy định chưa rõ ràng: Hai điểm mấu chốt
Có hai vấn đề chưa rõ ràng, bao gồm chuyển tiếp ưu đãi thuế và tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi.
Thứ nhất, về việc chuyển tiếp ưu đãi thuế, theo Luật số 71, doanh nghiệp được quyền lựa chọn hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp phép (nếu có lợi hơn) hoặc theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung cho thời gian còn lại.
Như vậy, theo nguyên tắc này thì đối với các dự án sản xuất sản phẩm CNHT được cấp phép trước ngày 1/1/2015 hiện đang hoạt động trước đây không thuộc diện được hưởng ưu đãi thì sẽ có cơ hội được hưởng ưu đãi cho thời gian còn lại, kể từ ngày 1/1/2015.
Tuy nhiên, Nghị định số 12/2015/NĐ-CP cũng mới chỉ quy định về việc áp dụng nguyên tắc chuyển tiếp ưu đãi cho dự án đầu tư thuộc địa bàn trước 01/01/2015 chưa được hưởng ưu đãi nay trở thành địa bàn ưu đãi từ 01/01/2015 nhưng không quy định chuyển tiếp ưu đãi cho dự án đầu tư thuộc ngành nghề, lĩnh vực (trong đó có CNHT) không thuộc diện hưởng ưu đãi trước 01/01/2015 nay đáp ứng điều kiện ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi từ 01/01/2015 theo Luật số 71. Điều này đã tạo ra sự không công bằng trong việc hưởng ưu đãi thuế TNDN giữa các doanh nghiệp.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP và trên cơ sở rà soát các quy định về thuế còn bất cập, Bộ Tài chính đã dự thảo để trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các Nghị định quy định về thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT theo hướng sửa đổi quy định về nguyên tắc chuyển tiếp ưu đãi thuế TNDN tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP nêu trên theo đúng tinh thần của Luật số 71/2014/QH13. Dự thảo Nghị định đã được gửi lấy ý kiến các Bộ, VCCI và các Hiệp hội doanh nghiệp vào tháng 9 năm 2016. Tuy nhiên, cho tới nay, dự thảo Nghị định trên nêu trên vẫn chưa được phê duyệt và ban hành.
Thứ hai, về tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi, cộng đồng doanh nghiệp đang lúng túng khi áp dụng tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi quy định tại Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT và Thông tư 55/2015/TT-BCT quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT.
Theo đó, đối tượng hưởng ưu đãi là dự án sản xuất sản phẩm CNHT bao gồm dự án đầu tư mới, dự án mở rộng và đổi mới công nghệ có ứng dụng thiết bị công nghệ mới, quy trình sản xuất mới, với năng lực sản xuất tăng ít nhất 20%. Doanh nghiệp thực tế không biết sẽ sử dụng tiêu chí nào: tăng tài sản cố định, tăng công suất, tăng vốn đầu tư hay tăng doanh thu để xác định dự án sản xuất sản phẩm CNHT của mình có thuộc đối tượng được áp dụng ưu đãi theo diện tăng năng lực sản xuất 20% hay không.
Giải phápTheo tinh thần của Nghị quyết số 35/NQ-CP, việc sửa đổi bổ sung các quy định bất cập của chính sách phát triển CNHT là rất cấp thiết. Vì vậy, tác giả đề xuất các giải pháp sau:
Về chuyển tiếp ưu đãi thuế: đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về chuyển tiếp ưu đãi cho dự án đầu tư thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác trước 01/01/2015 không thuộc diện hưởng ưu đãi (trong đó có dự án sản xuất sản phẩm CNHT) nay đáp ứng điều kiện ưu đãi theo Luật số 71 như trong dự thảo Nghị định do Bộ tài chính chủ trì đã chuẩn bị và lấy ý kiến. Việc bổ sung quy định này sẽ đảm bảo sự nhất quán với Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 hiện hành, trong đó có quy định về bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật.
Về tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi: đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương nghiên cứu, xem xét hướng dẫn chi tiết về các tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi theo diện Dự án mở rộng có năng lực sản xuất tăng ít nhất 20% tại Nghị định 111, trong đó cân nhắc cho phép lựa chọn 01 trong 03 tiêu chí xác định dự án đầu tư mở rộng quy định tại pháp luật thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện hành (ví dụ: tăng giá trị nguyên giá tài sản cố định; tăng tỷ trọng nguyên giá tài sản cố định hoặc tăng công suất) để có sự thống nhất chung.