Trong 5 tháng đầu năm 2017, Việt Nam đã nhập khẩu 5,57 triệu tấn than, trị giá 577,218 triệu USD, giảm 4,7% về lượng nhưng tăng 58,3% về trị giá.
Đây là số liệu được đưa ra tại Hội thảo về ngành than giữa VN và Indonessia: “Đảm bảo sự phát triển kinh tế và an ninh năng lượng”, nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Indonesia, đặc biệt là trong ngành than. Hội thảo do VCCI phối hợp với Đại Sứ quán Indonesia tại Việt Nam tổ chức tại HN.
Indonesia hiện là một trong những thị trường nhập khẩu than lớn nhất của Việt Nam. Khi nhu cầu nhập khẩu than ngày càng lớn thì Indonesia được nhận định là thị trường nhập khẩu tiềm năng của Việt Nam.
Ông Ngô Sơn Hải, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, trong năm 2016, nhu cầu than nhiệt của tập đoàn này là 680 ngàn tấn, năm 2017 dự kiến là 4,7 triệu tấn. Con số này sẽ tăng lên khoảng 11 triệu tấn vào năm 2020 và đên 2025 là 19 triệu tấn. Ông Hải cho biết thêm, nhu cầu sử dụng điện của Việt Nam ngày càng tăng, trong khi tiềm năng thủy điện đã khai thác hết, năng lượng tái tạo cũng sử dụng hạn chế, nhu cầu than nhiệt là rất lớn. Ông cũng mong muốn có nguồn cung cấp than đảm bảo, ổn định cho các nhà máy điện than.
EVN bắt đầu có nhu cầu nhập khẩu than vào năm 2016 và nhà máy đầu tiên sử dụng than nhập khẩu là Nhiệt điện Duyên Hải 3. Hiện, Chính phủ đang giao cho EVN xây dựng và quản lý nhà máy nhiệt điện sử dụng than nhập khẩu là Nhiệt điện Vĩnh Tân, Nhiệt điện Duyên Hải 3, 4 mở rộng.
Theo ông Hải, việc đảm bảo than ổn định cho nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3 là vấn đề đang rất được quan tâm. EVN vẫn đang trong quá trình vừa nghiên cứu và áp dụng thực tế để thời gian tới có phương thức, cách thức đảm bảo nguồn cung cấp than ổn định cho phát điện.
Theo Tập đoàn Than - Khoáng sản VN -Vinacomin, về khối lượng than dự kiến mà các ngành nghề sử dụng tại Việt Nam như điện, luyện kim, xi măng, phân bón, hóa chất…thì ngành điện sử dụng than nhiều nhất. Năm 2017, tổng nhu cầu than sử dụng cho điện là 34-35 triệu tấn, năm 2025 là trên 100 triệu tấn, năm 2030 là trên 140 triệu tấn. Trong khi đó, năm 2016, TKV đã khai thác được 34 triệu tấn than, năm 2017 dự kiến là 36 triệu tấn, 2020 là 47 triệu tấn.
Ngoài EVN, còn có các nhà máy nhiệt điện của nước ngoài, nhà máy của các tập đoàn khác như TKV, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cũng phải nhập khẩu than.
Tuy nhiên, theo dự tính, đến năm 2020, nhu cầu than cho sản xuất trong nước là hơn 75 triệu tấn than. Than trong nước chỉ đáp ứng được ½ nhu cầu, con số này cho thấy nhu cầu nhập khẩu than của Việt Nam là rất lớn.
Trong khi đó, sản xuất than là việc khó khăn và không thể tăng sản lượng nhanh nên theo thời gian lượng than nhập khẩu tăng dần, đến năm 2030 dự kiến phải nhập 120 triệu tấn than.
Theo ông Ibnu Hadi, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Indonesia tại Việt Nam, năm 2016, sản lượng than của Indonesia là 23 triệu tấn, trong đó 60% sản lượng này là cung cấp thị trường trong nước còn lại là xuất khẩu sang các nước. Năm 2017, Indonesia chủ yếu sẽ xuất khẩu than và dự định nâng cao sản lượng tăng 25-30 triệu tấn vào năm 2018.
Ông Ibnu Hadi cho rằng, số lượng than nhập khẩu ngày càng gia tăng sẽ là cơ hội cung cấp than của Indonesia cho Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là Việt Nam là thị trường hứa hẹn cho việc xuất khẩu than của Indonesia.
Số liệu thống kê cho thấy, năm 2016, tổng thương mại xuất khẩu từ Indonesia sang Việt Nam là 5,5 tỷ USD, năm 2017 phấn đấu đạt 6 tỷ USD. Một trong những sản phẩm mà Indonesia xuất khẩu lớn nhất sang Việt Nam là than. Năm 2016, xuất khẩu than từ Indonesia sang Việt Nam đạt 2.945.671 tấn. Trong 4 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu sang Việt Nam là 1.551.824 tấn, hết năm 2017 có thể xuất khẩu 4,5 triệu tấn sang Việt Nam.
Được biết, hiện có 39 doanh nghiệp của Indonesia đầu tư vào Việt Nam, trong đó, Công ty Vietmindo đầu tư vào khai thác mỏ tại Quảng Ninh - Việt Nam.
Quỳnh Anh