Khám phá Cao nguyên đá Đồng Văn từ góc nhìn di sản

11:33:02 | 22/8/2011

Một hình dung về những trầm tích văn hóa và tự nhiên hòa quyện trong một khu vực rộng lớn được cảm nhận một cách rõ rệt với những giá trị văn hóa, lịch sử bên cạnh những cấu tạo địa chất là những giá trị di sản lớn đang hiện hữu tại nơi đây – Cao nguyên đá Đồng Văn- với những hiện vật đặc trưng địa tầng thú vị lưu giữ trong lòng đất khá nhiều dấu tích cổ sinh học phong phú trải dài cả trăm triệu năm.

Trải rộng về phía Đông Bắc của tỉnh Hà Giang, Cao nguyên đá Đồng Văn gồm các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn. Nằm ở độ cao trung bình 1.000 – 1.600m so với mực nước biển, trên diện tích hơn 2.360 km2. Cao nguyên đá Đồng Văn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với du khách và những nhà nghiên cứu khoa học, bởi nơi đây chứa đựng vô số những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử của vỏ trái đất, những hiện tượng tự nhiên, những cảnh quan đặc sắc.

Quản Bạ là huyện cửa ngõ của Cao nguyên đá, qua con dốc Bắc Sum ngoằn ngèo chạy lên cổng trời, thị trấn Tam Sơn với cặp núi đôi kiêu hãnh bình yên trong thung lũng mù sương. Địa hình đá vôi thường lởm chởm, gồ ghề do quá trình karst hóa, nhưng hình dáng núi Đôi Cô Tiên lại tròn trịa theo dạng bát úp giống như địa hình ở các vùng đá lục nguyên bởi sự bào mòn đều đặn. Những bản làng người Mông hạ sơn bên dãy núi Bát Đại Sơn, người Tày, người Giấy trong thung lũng Nà Khoang thơ mộng. Ở đó, đồng bào sống trong những ngôi nhà chình tường ấm áp, sự khắc nghiệt của đất trời với cái nghèo, cái đói chẳng bao giờ dập tắt được khát vọng vươn lên của người dân nơi đây.

Đèo Mã Pì Lèng thuộc địa phận xã Pải Lùng, huyện Mèo Vạc, nằm trên quốc lộ 4C nối hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc. Đây là một trong những nơi phong phú bậc nhất các di sản địa chất tiêu biểu của Cao nguyên đá với những kim tự tháp chóp nón karst, những sườn, vách karst nối tiếp nhau cùng tạo nên đệ nhất cảnh quan Mã Pì Lèng. Với độ sâu 700-800m, dài 1,7km, vách dốc 70-900 đây là danh thắng thuộc loại kỳ vĩ nhất trên Cao nguyên đá, được coi là hẻm vực sâu nhất Việt Nam và có thể là sâu nhất Đông Nam Á. "Đệ nhất cảnh quan" MapiLeng này đã được các nhà khoa học xếp vào di sản kiến tạo – địa mạo cấp quốc tế - một sự tôn vinh xứng đáng bên cạnh những truyền thuyết, những câu chuyện cổ tích làm mê hoặc lòng du khách đã tới đây.

Những căn nhà đặc trưng được làm từ đất với mái ngói âm dương và hệ thống móng được làm bằng đá thực sự là một tác phẩm kiến trúc đặc sắc. Giống như rất nhiều mẫu hình kiến trúc tại các làng quê Việt Nam, tác phẩm kiến trúc nhà chình tường của người dân sống trên Cao nguyên đá thể hiện được sự giao hoà với thiên nhiên, sự hiểu biết và khả năng ứng phó với thiên nhiên của các nghệ nhân dân gian.

Lũng Cú được biết đến là điểm Cực bắc của Việt Nam với nhiều cảnh quan hùng vĩ, kiến tạo của khu vực này là một nếp lồi lớn với hai cánh cắm đơn nghiêng về phía Đông Bắc và Tây Nam, bị phá hủy bởi đứt gãy dọc trục phương Tây Bắc Đông Nam, tạo nên loại địa hình đơn nghiêng cuesta. Lũng Cú còn là mảnh đất chứa đựng nhiều giá trị đặc sắc khác về khảo cổ, lịch sử cũng như những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của đồng bào các dân tộc Mông và Lô Lô…Những hoá thạch Tay cuộn, hóa thạch Bọ Ba Thuỳ ở Ma Lé và Lũng Cú có tuổi khoảng từ 400 - 500 triệu năm cũng đã được tìm thấy trên cao nguyên này.

Nhà Vương được xây dựng trên vị trí quả đồi có hình mai rùa, nhìn về hướng nam. Công trình này là tổ hợp giao thoa của nhiều nền văn hóa, nhiều phong cách kiến trúc, trong đó nổi lên sự giao thoa kiến trúc Hoa Nam - Mông .Vật liệu để xây dựng tòa nhà này chủ yếu là gỗ thông và đá xanh được khai thác quanh vùng. Ngói trang trí là ngói ống mua từ Trung Quốc. Tòa nhà tốn tới 15 vạn đồng bạc trắng, dựng trong ba năm mới hoàn thành.

Bố cục tòa nhà theo ba lớp, cao dần vào trong, hai góc trong cùng xây hai lô cốt bằng đá xanh, có ba tầng, cách ba lớp nhà là ba sân lát đá phiến đồng thời là ba giếng trời để lấy ánh sáng cho toà nhà. Tường trình bằng đất sét, móng nhà làm bằng đá, bên trong bếp ghép ván, cột kèo bằng gỗ, sàn lát ván gỗ, mái lợp ngói máng, hiên nhà lợp ngói ống trang trí hoa văn chữ "thọ ".

Thông thường khi vào làm việc hoặc tiếp kiến với “Vua Mèo” Vương Chính Đức, các Tổng giáp, Lý trưởng, Mã phài... đến cổng sẽ có người dắt ngựa và mời vào phòng khách uống nước tại hai chiếc bàn, mỗi bàn có tám ghế vuông. Sở dĩ mỗi bàn có tám chiếc ghế vì theo phong tục của người Mông khi chết phải có tám người khiêng. Toàn bộ những gian nhà trong được chia làm nhiều phòng nhỏ, phòng chính được dành cho Vương Chính Đức và ba người vợ của ông cùng các con trai, con gái, người giúp việc và lính gác. Trong khuôn viên có kho lương thực, kho thuốc phiện, kho vũ khí và những vật dụng sinh hoạt. Đặc biệt là một chiếc lò sưởi được xây theo kiểu Châu âu và một bể tắm bằng đá của ông Vương. Khi Vương Chính Đức già yếu đã giao lại quyền hành cho con trai là Vương Chí Sình. Năm 1945, Vương Chí Sình được về Hà Nội tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Bác Hồ đổi tên là Vương Chí Thành. Năm 1993, khu nhà Vương được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Toàn bộ con cháu dòng họ Vương hiện vẫn sinh sống quây quần quanh khu nhà Vương và được giao đảm nhận việc trông nom duy tu, bảo dưỡng, làm hướng dẫn cho các đoàn khách tham quan khu di tích có kiến trúc nghệ thuật độc đáo này.

Ngày mới trên Cao nguyên đá Đồng Văn là những đoàn người len lỏi qua các vách đá tiến về các khu chợ trung tâm. Khác với dưới xuôi, chợ phiên vùng cao không phải ngày nào cũng họp, chợ thường được họp vào ngày thứ bảy hoặc chủ nhật như chợ Đồng Văn, Mèo Vạc hay chợ Sủng Trà, có những nơi lại họp vào ngày các con vật như ngày Thìn ngày Tuất có chợ Phố Cáo, ngày Ngọ ngày Tý có chợ Phố Bảng.... Chợ phiên hàng tuần là nơi đồng bào có thể gặp gỡ nhau ngoài những dịp sinh hoạt cộng đồng hiếm có, đây cũng là cơ hội để họ nhìn xa hơn ra ngoài xã hội cộng đồng làng xã của mình. Cũng như bao phiên chợ vùng cao khác, đồng bào đến đây không chỉ để mua bán mà còn để giao lưu gặp gỡ và trao đổi tâm tư trong suốt khoảng thời gian giữa hai phiên chợ.

Thanh Nga