09:29:25 | 1/8/2012
Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm du lịch văn hóa hàng đầu của cả nước, du lịch Thừa Thiên Huế chính là sự khám phá các giá trị nhân văn – lịch sử và văn hóa. Vấn đề đặt ra là Thừa Thiên Huế sẽ khai thác các sản phẩm này theo hướng chuyên sâu như thế nào? Để tìm lời giải đáp câu hỏi này, Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ Phan Tiến Dũng, Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh. Phan Quang – Đức Long thực hiện.
Du khách tìm đến với Thừa Thiên Huế là để khám phá các giá trị văn hóa – nhân văn và lịch sử. Với vai trò là nhà quản lý của ngành du lịch, ông nghĩ gì về điều này?
Thừa Thiên Huế tự hào là nơi đang lưu giữ 1000 di tích lịch sử văn hóa, hơn 500 lễ hội, hai di sản văn hóa thế giới là quần thế Cố đô và Nhã nhạc cung đình. Chúng tôi còn có vịnh Lăng Cô được đánh giá là một trong những vịnh biển đẹp nhất thế giới; hệ phá Tam Giang – Cầu Hai được coi là đầm phá lớn nhất Đông Nam Á… Tiềm năng của kinh tế du lịch chính là giá trị văn hóa, nhân văn của xứ Huế, chính điều này mới tạo nên một sức hấp dẫn, một cái gì đó độc đáo rất Huế.

Sẽ không chỉ đơn thuần là đến Cố đô để thăm quan, nghe nhã nhạc cung đình, hay xuôi ngược sông Hương với điệu Nam ai, Nam Bằng mà trên tất cả là sống và cảm nhận về văn hóa Huế. Tôi nói thế này, bây giờ đang là thời điểm người Huế làm giỗ nhớ ngày kinh đô thất thủ (25/5/1885), chỉ riêng điều đó thôi du khách đã hiểu được một phần về những trang sử của Huế. Rồi cảm nhận cuộc sống ở làng cổ Phước Tích, hay trên đầm phá Tam Giang, Lăng Cô vịnh đẹp thế giới, đi chợ quê ngày hội…Thiên nhiên đã ưu đãi cho Huế nhiều, nhưng chính con người mới làm Huế đẹp hơn, hấp dẫn và độc đáo hơn đối với du khách.
Trong hành trình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, đặc biệt là một trung tâm văn hóa du lịch đặc sắc của cả nước, Thừa Thiên Huế đã và đang triển khai nhiều dự án, đề án phát triển du lịch, đặc biệt là chương trình nâng cao nhận thức của nhân dân về phát huy các giá trị tốt đẹp, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hy vọng rằng trong thời gian tới đây, chúng tôi sẽ có nhiều sản phẩm du lịch mới để du khách thêm ấn tượng và thú vị khi đến với Thừa Thiên Huế.
Như vậy với các sản phẩm du lịch của mình, Thừa Thiên Huế sẽ có hướng khai thác chuyên sâu như thế nào, thưa ông?
Hiện giờ mà nói, các sản phẩm liên kết vùng như kết nối các kinh đô cổ của Việt Nam, các di sản văn hóa khu vực Bắc Trung Bộ… đang được tỉnh ưu tiên phát triển. Một số dòng sản phẩm du lịch độc đáo đã được hình thành như: du lịch lễ hội (Vật làng Sình, vật làng Thủ Lễ), du lịch làng nghề (như Phước Tích, Bao La, Thanh Tiên…), rồi du lịch tâm linh, chữa bệnh, trải nghiệm cuộc sống ở đầm phá…
Huế còn là nơi tổ chức du lịch hội thảo, từ 200 hội nghị quốc gia quốc tế năm 2005, đến giờ con số này là hơn 400, như vậy là ngày nào ở Huế cũng có ít nhất một hội thảo mang tầm quốc gia hoặc quốc tế. Đó cũng là một điều thành công của chúng tôi. Du lịch nghỉ dưỡng cao cấp cũng đặc biệt phát triển tại Thừa Thiên Huế, tập đoàn Banyan Tree (Singapore) đã đầu tư dự án Laguna Huế. Họ cũng chỉ xác định đầu tư có ba điểm ở Đông Nam Á là Bali (Indonexia), Phu Khẹt (Thái Lan) và Chân Mây Lăng Cô (Việt Nam). Tháng 10 này dự án sẽ đi vào khai trương, 400 phòng đầu tiên đã được đăng ký hết, đến năm 2013, 1800 phòng sẽ được đưa vào sử dụng đồng thời khai trương sân golf. Ở Khu vực Cảnh Dương – Lăng Cô có 26 dự án với gần 50 ngàn tỷ đồng vốn đầu tư, 540 nhà nghỉ và khách sạn, 11 ngàn phòng.
Tất cả những điều đó nói lên việc Thừa Thiên Huế đang khai thác, phát huy tốt các tiềm năng du lịch của mình. Một cái minh chứng là từ chỗ chỉ đóng góp 30 – 31% năm 2000 đến nay ngành này đã chiếm tới 45% GDP của tỉnh, tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành đạt 12 – 15%/năm, doanh thu tăng bình quân 15 tới 25%. Riêng trong 6 tháng đầu năm nay, lượng khách đến Thừa Thiên Huế đã tăng tới 21%, doanh thu tăng tới 26%.
Nhưng nói như vậy, không phải là Thừa Thiên Huế không có những khó khăn trong phát triển kinh tế du lịch, thưa ông?
Điều quan ngại nhất đối với chúng tôi chính là tình trạng các di tích lịch sử văn hóa xuống cấp quá nhanh. Nhu cầu thực tế cho việc trùng tu bảo vệ các di sản của Thừa Thiên Huế lên tới 500 tới 600 tỷ đồng một năm, nhưng thực tế từ rất lâu chúng tôi mới chỉ có khoảng 50 tới 60 tỷ đồng. Cũng “căng đầu” lắm, bởi nếu mình không ngăn chặn kịp thời tình trạng xuống cấp các di tích lịch sử thì sẽ mai một các tài nguyên này, mà như thế sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến Huế.
Thêm vào đó, nhân lực cho kinh doanh phát triển du lịch cũng đang rất thiếu, đặc biệt là đội ngũ chuyên môn, chuyên gia giỏi trong việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm du lịch Huế. Vấn đề giao thông của tỉnh cũng chưa phải là hoàn toàn thuận lợi, sân bay Phú Bài chưa phải là sân bay quốc tế hoàn thiện, đường cao tốc Huế - Đà Nẵng thì đến năm 2015 mới hoàn thành.
Giải quyết vấn đề này, các ngành các cấp phải phối hợp chặt chẽ và đồng bộ, nhằm quản lý tốt nguồn tài nguyên của kinh tế du lịch. Huy động mọi nguồn lực để giữ gìn, phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, trong đó chú trọng đầu tư trọng điểm đặc biệt là ở quần thể di tích Cố đô. Không chỉ có Nhà nước mà cộng đồng, du khách cùng phải chăm lo bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Thừa Thiên Huế.
Festival Huế 2012 vừa kết thúc, ông đánh giá thế nào về kỳ Festival này?
Đây là một kỳ Festival thành công, đặc biệt là khi Festival Huế 2012 được gắn liền với Năm du lịch quốc gia duyên hải Bắc Trung Bộ - du lịch di sản. Qua sự kiện mang tầm vóc quốc gia và quốc tế, chúng ta có điều kiện hơn để quảng bá hình ảnh, thương hiệu cũng như sản phẩm du lịch của cả khu vực. Khai mạc ngày 7/4, kết thúc vào ngày 15/4, Festival Huế 2012 với chủ đề “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển – Nơi gặp gỡ các thành phố lịch sử” thực sự đã là điểm nhấn cho Năm du lịch quốc gia 2012.
Chúng ta đã tạo được một kỳ lễ hội hoành tráng hơn, chất lượng cao hơn, có tính cộng đồng rõ nét và đặc biệt là khâu tổ chức chuyên nghiệp hơn. Sự thành công của Festival Huế 2012 đã từng bước nâng cao hình ảnh, vị thế văn hóa Việt Nam, trong đó có văn hóa Huế đối với quốc tế, tạo nên sự kính trọng và cảm mến của các quốc gia, du khách đối với con người và nền văn hóa Việt Nam.