16:55:47 | 18/12/2012

Quan điểm Kinh tế xanh – Phát triển xanh - Tăng trưởng xanh
Sự khai thác và sử dụng thái quá nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch và các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã gây ra những tổn hại to lớn cho môi trường như không khí ô nhiễm bởi khí thải nhà kính CO2, SO2, CH4; nguồn nước và đại dương nguy hại; đất suy, rừng mất; đa dạng sinh học bị méo mó; khí hậu toàn cầu biến đổi không dự báo được ... Cơn bão Bopha quét qua Philippines để lại hậu quả nặng nề với gần 900 người thiệt mạng và mất tích. Siêu bão Sandy tràn qua nước Mỹ đã gây thiệt hại lên tới 80 tỷ USD - mức thiệt hại do thiên tai lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Mỗi năm GDP toàn cầu bị mất đi 1,6%, tức là khoảng 1.200 tỷ USD do tình trạng biến đổi khí hậu. Và lượng GDP mất đi này sẽ tăng gấp đôi trong vòng 20 năm nữa, nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng. Và đến thời điểm hiện nay, nhiệt độ Trái Đất đã tăng thêm 4 độ C so với thời kỳ trước khi ngành công nghiệp thế giới bùng nổ (sau thập niên 1950), và cao hơn mục tiêu 2 độ C mà Liên hợp quốc đặt ra. Cộng đồng đã bàn nhiều về vấn đề này và tìm hiểu nguyên nhân. Xét về hình thức, khởi thủy nguyên căn chính là nguồn nhiên liệu hóa thạch - thủ phạm của hiện tượng trái đất nóng lên. Tuy nhiên xét về bản chất thì nguyên căn lại chính là tác động mặt trái của các mô hình phát triển kinh tế đi cùng với phương thức phát triển hạn chế. Để kịp thời điều chỉnh các mặt trái này, Chương trình môi trường Liên hợp quốc đã đưa ra một hướng tiếp cận được coi là mới cho phát triển kinh tế được nhiều quốc gia đồng tình hưởng ứng, đó là phát triển “nền kinh tế Xanh” (Green Economy).
Cách tiếp cận mô hình Kinh tế Xanh hoàn toàn khác so với cách tiếp cận của mô hình Kinh tế nâu, khi các ngành kinh tế “nâu” đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế với công nghệ sản xuất lạc hậu chậm đổi mới tiêu tốn nhiều năng lượng, chất lượng sản phẩm thấp, phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm suy thoái môi trường, kèm với đó là tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính. Kinh tế nâu là nền kinh tế khai thác và sử dụng quá nhiều năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây tổn hại to lớn cho môi trường, gây biến đổi khí hậu quy mô toàn cầu, đe dọa cuộc sống con người.
Vì vậy, việc điều chỉnh về nhận thức, khắc phục về phương pháp luận, thay thế cho kinh tế nâu có sự lựa chọn mới là Kinh tế xanh. Khi nền kinh tế đang phụ thuộc quá lớn vào mô hình phát triển Kinh tế nâu thì lựa chọn con đường phát triển Kinh tế Xanh phù hợp là điều đang khiến các nhà quản lý, các nhà khoa học phải bàn tính kỹ.
Kinh tế xanh là nền kinh tế mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Kinh tế xanh là công cụ để đạt được phát triển bền vững – được coi là sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, môi trường và xã hội dựa trên những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Xét về bản chất, Kinh tế Xanh là nền kinh tế ở đó con người là trung tâm, trong đó có các chính sách tạo ra các nguồn lực mới về tăng trưởng kinh tế bền vững và bình đẳng. Thúc đẩy nền Kinh tế xanh và cải tổ quản lý môi trường là hai nhân tố căn bản đảm bảo tiến trình phát triển bền vững.
Phát triển xanh là cách tiếp cận bền vững đến quy hoạch sử dụng đất và bất động sản có xem xét yếu tố môi trường trên bình diện khu vực và cộng đồng, bao gồm quy hoạch đô thị, quy hoạch môi trường, kiến trúc, năng lượng, nước và các nguồn lực khác.
Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Tăng trưởng xanh đã trở thành một nội dung được quan tâm đặc biệt tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-18) vừa mới kết thúc tại Doha, Qatar. Tăng trưởng xanh là xu thế không thể đảo ngược, nhưng cũng là mục tiêu đầy tham vọng đòi hỏi có sự đầu tư lớn về tiền bạc và công nghệ. Điểm được bàn thảo nhiều nhất tại Hội nghị COP-18 là việc tìm chìa khóa để ứng phó cho việc biến đổi khí hậu và cho nỗ lực tăng trưởng xanh, đó là việc huy động một cách hiệu quả các nguồn lực tài chính, được biết đến với khái niệm Tài chính khí hậu. Tài chính dành cho biến đổi khí hậu là nguồn lực để thúc đẩy các dự án của Tăng trưởng xanh như phát triển năng lượng sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, các dự án tái chế, mua bán hạn ngạch khí thải, đánh thuế khí thải… Tính đến hết năm 2012, nguồn Tài chính khí hậu huy động được ước tính vào khoảng 30 tỷ USD. Dự kiến, các nước đang phát triển cần nguồn tài chính vào khoảng 60 tỷ USD cho giai đoạn 2013- 2015 để triển khai các dự án năng lượng sạch. Một trong những bước đi quan trọng hàng đầu tạo nền tảng dài hạn trong nỗ lực huy động cho Tài chính khí hậu hiện nay, là việc hình thành Quỹ Khí hậu xanh.
Quỹ Khí hậu xanh trị giá 100 tỷ USD được thành lập tại Hội nghị COP-17 năm 2011, thể hiện cam kết của các nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2013-2020, nhưng cho đến nay vẫn chưa đi vào hoạt động do chưa thống nhất được việc xác định cơ chế giám sát các nguồn kinh phí này. Các nước nhận tài trợ có nhu cầu giám sát việc thực hiện cam kết của các nhà tài trợ, còn các nhà tài trợ thì muốn kiểm tra xem các khoản tiền đó có được sử dụng vào các dự án phù hợp và hiệu quả hay không. Hơn nữa, làm như thế nào để huy động sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc tìm kiếm nguồn kinh phí cho Tài chính khí hậu cũng là điểm mấu chốt. Bà Rachel Kyte, Phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới về Phát triển bền vững cho biết: “Chúng ta đang trong quá trình thiết kế Quỹ Khí hậu xanh. Cần thiết kế quỹ này sao cho các nguồn lực tư nhân có thể trở thành đòn bẩy cho các khoản đầu tư vào lĩnh vực biến đổi khí hậu”. Trong khi chờ đợi Quỹ Khí hậu xanh đi vào hoạt động, điều mà Ngân hàng Thế giới cũng như các nhà tài trợ khác quan tâm hiện nay là làm sao để duy trì dòng vốn tiếp tục chảy vào các dự án biến đổi khí hậu. Rất nhiều dự án đang cần nguồn tài chính quan trọng này, trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ sở hạ tầng để đạt được Tăng trưởng xanh và sạch.
Tăng trưởng xanh tại Quảng Ninh
Trả giá bởi cạn kiệt dần nguồn tài nguyên, sự ô nhiễm môi trường và môi sinh trong thời gian dài đã tác động đến tư duy của lãnh đạo tỉnh. Một trong những tư tưởng quan trọng tạo tiền đề nghiên cứu lý luận về định vị mô hình tăng trưởng xanh ở Quảng Ninh xuất phát điểm từ đúc rút kết luận Hội nghị Trung ương 3, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh và quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thật sự vì con người... Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội... Chúng ta cần một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau... Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để đảm bảo với môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai”.
Trên nền tảng lý luận đó, Quảng Ninh còn tiếp cận tăng trưởng xanh trong tổng thể của các góc độ kinh tế, quản lý môi trường và xã hội. Và chủ trương này đã được hiện thực hóa bằng Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 01/12/2011 của Tỉnh ủy Quảng Ninh trong đó định hình rõ về hướng đi: “Phát triển nhanh và bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng từ tăng trưởng nóng sang tăng trưởng xanh và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng nhanh hơn nữa tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế… Tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị và hạ tầng, quy hoạch sử dụng tài nguyên và đất đai, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực; Giải quyết những vấn đề cấp bách về môi trường…”.
Để khắc phục tình trạng này và rút ngắn khoảng cách trong phát triển có tính dài hạn nhằm phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới, mang lại phúc lợi tốt nhất cho người dân, lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh đã yêu cầu các ngành, nghề trong tỉnh nhanh chóng chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng bảo đảm phúc lợi và bảo vệ tài nguyên môi trường, chuyển từ mô hình phát triển theo kiểu ồ ạt khai thác tài nguyên, bán nguyên liệu thô, chuyển sang phát triển theo chiều sâu, bền vững theo hướng tăng giá trị tài nguyên, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ trong từng sản phẩm; ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, quản lý và kinh doanh, quá trình thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh và công bằng xã hội, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng biên giới và hải đảo.
Đơn cử trong lĩnh vực khoa học công nghệ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã xác định lấy phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ làm nền tảng then chốt để phát triển. Đầu tiên phải kể đến việc Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết số 20 ngày 18/11/2011, quyết định mức đầu tư cho ứng dụng tiến bộ KHCN hàng năm từ 4-5% tổng chi ngân sách (tương đương 350 tỷ đồng) – một con số vượt bậc so với các giai đoạn trước đó. Nguồn kinh phí này chủ yếu phục vụ việc chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN vào sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. UBND tỉnh đã giao chỉ tiêu kế hoạch kinh phí hoạt động KH&CN năm 2012 là 376,761 tỷ đồng. Tỉnh xác định ưu tiên cho các lĩnh vực xây dựng Chính phủ điện tử 100 tỷ đồng, Quỹ Phát triển KH&CN 50 tỷ đồng, chương trình xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản 32 tỷ đồng, các nhiệm vụ trong chương trình hợp tác với Bộ KH&CN 50 tỷ đồng v.v... Đặc biệt, ngày 5/5/2012, BCH Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 04-NQ/TU “Về phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020”. Nghị quyết đề ra những mục tiêu cụ thể: Đến năm 2015, Quảng Ninh có khu nghiên cứu ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, tạo tiền đề cho việc hình thành khu công nghệ cao; xây dựng và phát triển thương hiệu cho khoảng 30-35 nông phẩm, đặc sản, dịch vụ có thế mạnh của tỉnh; hỗ trợ xác lập, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ trong nước và quốc tế cho 250-300 đối tượng sở hữu công nghiệp; số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 10%/năm…
Sự hỗ trợ của Nhật Bản đối với định hướng tăng trưởng mới của Quảng Ninh
Quảng Ninh là tỉnh đầu tiên của Việt Nam đề cập đến vấn đề tăng trưởng xanh với Nhật Bản và cũng là địa phương đầu tiên đề nghị JICA làm tư vấn chiến lược cho quá trình xây dựng thực hiện ý tưởng này. JICA hiện đang tiếp tục nghiên cứu, xem xét hỗ trợ cho Quảng Ninh trong xây dựng lộ trình cụ thể đối với tăng trưởng xanh, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý môi trường Vịnh Hạ Long. JICA hỗ trợ Quảng Ninh trong Dự án Bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long được triển khai từ tháng 3/2010 đến tháng 2/2013 nhằm xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường để có được ngành Du lịch bền vững tại khu vực Vịnh Hạ Long và hỗ trợ thành lập cơ quan thực thi chính “Uỷ ban bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long”. Khi hỗ trợ Quảng Ninh thực hiện dự án này, JICA xác định đây là đầu vào chiến lược tăng trưởng xanh của tỉnh Quảng Ninh như một hợp phần của chiến lược. Dự án thứ 2 vừa kết thúc đó là hợp tác xây dựng hệ thống tuần hoàn tài nguyên có sự tham gia của người dân tại Vịnh Hạ Long được triển khai từ tháng 10/2009 đến tháng 9/2012, dự án đã cơ bản hướng đến được mục tiêu xây dựng xã hội bền vững tại khu vực Vịnh Hạ Long, cải thiện môi trường Vịnh từ các hoạt động khảo sát thực tế về các vấn đề rác thải với sự tham gia của người dân; giảm thiểu rác thải bằng cách sử dụng làm phân hữu cơ; xử lý nước thải sinh hoạt; xây dựng đội ngũ tình nguyện viên hoạt động về môi trường… Dự án thứ 3 đang triển khai của JICA đó là nghiên cứu giải pháp đa lợi ích giảm tác động của biến đổi khí hậu thông qua việc xây dựng chu trình sản xuất nhiên liệu sinh học (trồng rừng, sản xuất, sử dụng) tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á từ năm 2011 đến 2016.
Trên cơ sở làm tư vấn chiến lược cho tăng trưởng xanh của Quảng Ninh, JICA đã tập trung nghiên cứu đánh giá kỹ về hiện trạng môi trường Vịnh Hạ Long với sự hợp tác của nhiều chuyên gia tại các trường đại học Việt Nam và Nhật Bản như Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội); Đại học tỉnh Osaka (Nhật Bản), từ đó đưa ra những giải pháp có thể và cần thiết; 5 phương pháp tiếp cận để giải quyết vấn đề quản lý môi trường Vịnh Hạ Long. Trong đó quan trọng nhất là xây dựng tăng trưởng xanh với trục chính là tái chế các loại rác thải để cải tạo đất cho các bãi thải sau khai thác than, sử dụng trong trồng rừng; sử dụng nhiên liệu sinh học cho các tàu du lịch.
Ngoài những dự án trực tiếp liên quan đến bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long, JICA đã hỗ trợ vốn vay cho Quảng Ninh để xây dựng cơ sở hạ tầng như xây dựng tuyến quốc lộ nối Quảng Ninh - Hà Nội - Hải Phòng; cầu Bãi Cháy, cảng Cái Lân, nhờ đó đã góp phần lưu thông hàng hoá trên địa bàn khu vực tam giác phát triển kinh tế trọng điểm của miền Bắc, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng - một bước đổi mới rất quan trọng mà tự thân mỗi địa phương sẽ rất khó thực hiện thành công. Chính vì vậy để phục vụ cho sự phát triển bền vững mà nòng cốt là tăng trưởng xanh, Quảng Ninh đang thực hiện dự án môi trường theo hướng liên kết, liên ngành như: dự án nghiên cứu tổng thể vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất của ngành than để tìm ra giải pháp phát triển hài hòa giữa ngành công nghiệp khai khoáng với việc bảo vệ môi trường; báo cáo đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, xem xét đưa dự án đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải các nhà hàng, khách sạn, khu dân cư ven bờ Vịnh Hạ Long vào sử dụng nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản; tăng cường quản lý xả thải của các tàu du lịch hoạt động trên Vịnh Hạ Long …
Và hơn tất cả, Thông báo 108-TB/TW ngày 1/10/2012 của Bộ Chính trị là minh chứng rõ ràng cho sự đúng đắn của con đường sắp tới của Quảng Ninh với tầm nhìn 2020 trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc và cả nước; tích cực chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”. Mỗi địa phương có đặc thù riêng về vị trí địa lý, lợi thế so sánh, phân vùng kinh tế và phát triển doanh nghiệp, chắc chắn rằng với tầm nhìn của lãnh đạo tỉnh và quyết tâm và nỗ lực của người dân Quảng Ninh cộng hưởng với sự ủng hộ mãnh mẽ của cộng đồng quốc tế và các đối tác phát triển sẽ giúp Quảng Ninh thành công trong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh này.
|
Tài liệu tham khảo:
- Hội nghị lần thứ 18 Công ước Khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-18) - Hội nghị lần thứ 17 Công ước Khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-17) - Phát biểu của Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh Phạm Minh Chính và Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Văn Đọc tại Kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XII - Thông báo 108-TB/TW ngày 1-10-2012 của Bộ Chính trị về Đề án “Phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và thí điểm xây dựng hai đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt Móng Cái, Vân Đồn” - Kết luận Hội nghị Trung ương 3, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) - Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh - Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 01/12/2011 của Tỉnh ủy Quảng Ninh về phương hướng, nhiệm vụ năm 2012 |
TS. Phan Thị Thùy Trâm
Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư