10:41:06 | 4/4/2014
Mới đây, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã công bố Báo cáo “Triển vọng Phát triển châu Á 2014”. Bên lề buổi họp báo, phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với ông Tomoyuki Kimura, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam xung quanh những vấn đề về kinh tế Việt Nam. Anh Phương thực hiện.
Ông đánh giá thế nào về sức khỏe nền kinh tế Việt Nam trong quý I/ 2014 ?
Nhìn nhận của cộng đồng quốc tế thấy rằng, mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã và đang đi theo chiều hướng tích cực nhờ những động thái và cam kết mạnh mẽ từ phía Chính phủ nhằm khôi phục lại khả năng tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua. Cụ thể, các biện pháp bao gồm: Việc mua lại một lượng lớn đáng kể nợ xấu thông qua VAMC; Tăng cường giám sát hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại; Sáp nhập và tái cơ cấu một số ngân hàng yếu kém; Nới lỏng những hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng trong nước; Và áp dụng các quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.
Ngoài những mặt được, ông có khuyến nghị gì đến Việt Nam về những “rào cản”?
Để đánh giá tổng thể một nền kinh tế chúng ta không chỉ nhìn vào thời điểm hiện tại. Có thể trong ngắn hạn nền kinh tế đó chưa thực sự tốt, nhưng trong trung hạn và dài hạn mức độ phục hồi cũng như tăng trưởng sẽ đầy tiềm năng. Cái chính là chúng ta cần có niềm tin và hành động quyết liệt, đó cũng chính là cách nhìn của tôi về nền kinh tế Việt Nam. Song ở đây cũng có những rào cản rõ ràng mà chúng ta buộc phải khắc phục, bởi nếu không sẽ trực tiếp gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Đó là, Việt Nam cần nhanh chóng nâng cao cũng như cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư tư nhân, bởi theo kinh nghiệm lực lượng này đóng góp rất nhiều vào việc huy động vốn cho các dự án, đồng thời giúp Việt Nam tiếp cận được với kiến thức chuyên môn và công nghệ quốc tế.
Ông có nhắc đến VAMC, theo ông cơ quan này trong thời gian qua đã và chưa làm được những gì?
Như chúng ta đều biết, Việt Nam đã có một động thái khá quyết liệt và khẩn trương đó là ngăn chặn sự lây lan của “cục máu đông”, cụm từ ám chỉ những khoản nợ xấu mà nền kinh tế vĩ mô đang phải hứng chịu. Và sự ra đời của VAMC, được mong đợi sẽ giải bài toán khó này. Tuy nhiên, sức mạnh thực sự của VAMC chính là khoản tài chính 24 triệu USD được Chính phủ bơm vào, đây là con số không lớn với công việc giải quyết những vấn đề của nợ xấu đang đặt ra của nền kinh tế Việt Nam. Việc VAMC làm được lúc này chỉ là hoán đổi nợ xấu bằng cách phát hành trái phiếu đặc biệt. Hoặc một cách ít tốn công hơn là khoanh nợ, giãn nợ. Điều này chưa thực sự giải quyết được gốc rễ vấn đề. Và cũng theo nhìn nhận của nhiều chuyên gia số vốn 24 triệu USD là quá nhỏ bé.
Theo ông trong thời gian tới Chính phủ sẽ nới “room” cho các nhà đầu tư ngoại tham gia vào lĩnh vực này?
Ngân hàng, tài chính và bảo hiểm bao giờ cũng là miếng bánh đầy lợi nhuận cho bất cứ loại hình đầu tư nào. Tuy nhiên, theo tôi độ mở của ngành này là 30% là đúng hướng. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn mong muốn tăng thêm, để họ có thêm lợi nhuận, có thêm sở hữu để tăng quyền chi phối khống chế. Song tại thời điểm này, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang trong quá trình tái cơ cấu mạnh mẽ nền kinh tế. Do đó để vừa thu hút các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước, Chính phủ sẽ mở cửa một số ngành, song việc mở đến đầu và như thế nào là điều cần phải được cân nhắc. Có thể trong tương lai khi kinh tế vĩ mô lấy lại được đà tăng trưởng khoảng cách này sẽ được mở rộng hơn nữa để “đất làm ăn” của các nhà đầu tư ngoại xông xênh hơn.
Trong bản báo cáo lần này của ADB có nhắc đến việc cần phải kiểm tra các bản báo cáo của các ngân hàng thương mại lên ngân hàng nhà nước. Tại sao lại phải có thêm phần việc này, thưa ông?
Thực chất, việc kiểm tra này là hoàn toàn bình thường và rất nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng chứ không riêng gì ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô chưa thực sự khởi sắc, mức độ các khoản nợ xấu của ngân hàng chưa được giải quyết triệt để thì việc kiểm tra chéo này hoàn toàn có cơ sở. Với mục đích làm lành mạnh hóa tính thanh khoản, cũng như phòng tránh các rủi ro cho các ngân hàng. Cụ thể, theo Thông tư 02 đã bắt buộc Ngân hàng thương mại sẽ phải cung cấp thông tin nợ xấu lên Ngân hàng Trung ương (đến năm 2015), trước đây việc này đã là bắt buộc. Động thái của Ngân hàng nhà nước lần này mục đích để tránh tình trạng các Ngân hàng thương mại lợi dụng quy định các khoản vay tái cấu trúc được gia hạn đến 90 ngày để “tái cơ cấu” các khoản nợ xấu tránh sự kiểm tra của Ngân hàng Trung ương.
ADB là một trong những “Mạnh Thường Quân” cung cấp lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển Việt Nam, song gần đây có một số thông tin “lùm xùm” xung quanh vấn đề này, ông bình luận ra sao ?
Tôi có nghe nói đến việc không đáng xẩy ra ở nguồn vốn ODA mà Chính phủ Nhật Bản cung cấp cho Việt Nam. Thực tế, dự án ODA nào cũng có tham nhũng, bởi cho các dự án ODA dù của đối tác phát triển nào tài trợ như ADB, hay Ngân hàng thế giới (WB)… thì bản chất đều là các hợp đồng đấu thầu, mua sắm. Và đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc các dự án này luôn phải đối mặt với nguy cơ cao dính líu đến các nghi án tham nhũng. Ở ADB chúng tôi luôn có cơ chế chính sách bảo vệ đặc biệt buộc các đối tác trong dự án mà ADB tài trợ phải tuân thủ nên với các quy định khắt khe này chúng tôi hi vọng sẽ giảm thiểu tối đa tình trạng đáng tiếc này.
Một vấn đề khác là có thông tin cho rằng một mét đường Việt Nam có giá đắt gấp 3 lần so với các nước trong khu vực. Sở dĩ có giá cao như vậy là ở Việt Nam công tác giải phóng mặt bằng còn quá yếu, thậm chí có thể “tắc” trong vài năm. Và với tình trạng lạm phát như ở Việt Nam hiện nay thì việc đội giá dự án lên là điều khó tránh khỏi. Một nguyên nhân khác cũng cần phải tính đến là mức chi phí ban đầu, và mức chi phí bảo dưỡng. Ở Việt Nam mức độ xâm hại của biến đổi khí hậu khá cao. Nếu mức phí duy tu bảo dưỡng thấp thì sẽ gây hậu quả rất lớn về sau cho các công trình hạ tầng giao thông. Đó chính là một trong các nguyên nhân tác động đến giá thành xây dựng hạ tầng giao thông của Việt Nam vẫn còn cao.
ADB cũng rất kỳ vọng vào việc Chính phủ Việt Nam sớm ban hành khuôn khổ pháp lý thống nhất đầy đủ để các nhà đầu tư tư nhân có thể tham gia vào xây dựng các cơ sở hạ tầng điều kiện thuận lợi để các giao dịch PPP diễn ra. Cũng như tăng tính cạnh tranh giữa các nhà đầu tư với nhau giúp giảm chi phí giá thành./.