10:33:28 | 29/4/2014
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một quốc gia phát triển là quốc gia có cộng đồng doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao. Theo các nhà kinh tế thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện ít nhất ở hai khía cạnh năng suất và chất lượng sống của người lao động trong doanh nghiệp. Như vậy, một doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao là doanh nghiệp có năng suất lao động và chất lượng sống của người lao động tốt hơn.
Có một thực tế là cộng đồng doanh nghiệp Việt nam chưa tạo được sức mạnh cạnh cạnh tranh cao. Theo số liệu điều tra của Đề tài khoa học năm 2012 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) “Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế sau 05 năm Việt Nam gia nhập WTO tới sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam” cũng cho thấy, năng suất lao động chung dao động ở những con số dưới 200 triệu VND/năm. Một con số còn khiêm tốn so với các doanh nghiệp ở những nước tương đồng trong khu vực.

Khi đi sâu vào những trường hợp cụ thể, trong một số doanh nghiệp cũng có năng suất lao động khá cao. Tuy nhiên, đa phần trong các doanh nghiệp đó, năng suất, thu nhập dựa trên các quan hệ độc quyền và nguồn lực tự nhiên. Chính vì vậy câu hỏi cần đặt ra hiện nay là “Làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp?” một cách lâu dài và bền vững trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết của Đại hội Đảng XI đặt ra.
Có rất nhiều câu trả lời khách quan và chủ quan cho câu hỏi này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết, chúng ta có thể đặt ra ít nhất 3 vấn đề quan trọng ở cấp độ vĩ mô và vi mô:
1. Cải thiện môi trường kinh doanh: Theo kết quả điều tra doanh nghiệp của Hội đồng Tư vấn Kinh doanh các nước ASEAN (ASEAN BAC) 2012, thì Việt Nam là một trong những nước có nhiều hạn chế nhất về các tiêu chí cơ bản của một môi trường kinh doanh (Hệ số tổng hợp 3,64) về việc tạo môi trường kinh doanh so với các nước trong khu vực. Xây dựng môi trường kinh doanh theo hướng thị trường đảm bảo sự tham gia bình đẳng của các chủ thể kinh tế như Chính phủ, Doanh nghiệp, Người tiêu dùng sẽ tạo được sự cộng hưởng cho phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Trong môi trường kinh doanh đó, các yếu tố hiệu quả, pháp luật và đạo đức kinh doanh phải được thượng tôn.
2. Xây dựng các công cụ phân tích thị trường: Sự phát triển đạt trình độ cao của nền kinh tế toàn cầu hiện nay không thể không nói đến kinh tế thị trường. Chính nền kinh tế thị trường là phát minh quan trọng nhất trong lĩnh vực phát triển kinh tế của nhân loại. Động lực của kinh tế thị trường là giải phóng trí tuệ, khả năng và khát vọng của loài người. Trong cơ chế thị trường đó, doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng thúc đẩy và hoàn thiện nó. Chính vì vậy, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải hiểu rõ khả năng của mình, bản chất của kinh tế thị trường và phải có những công cụ cần thiết để cạnh tranh. Hay nói cách khác muốn phát triển lâu dài và bền vững thì cạnh tranh phải dựa trên thị trường và thị phần sản phẩm, dịch vụ.
Theo các nhà lý thuyết cạnh tranh thì tối thiểu doanh nghiệp luôn phải xây dựng cho mình 3 công cụ phân tích thị trường: (1) Phân tích thuận lợi khó khăn; (2) Phân tích đối thủ cạnh tranh; (3) Phân tích khả năng cạnh tranh.
Phân tích những thuận lợi khó khăn giúp cho chúng ta nhận định được những điểm mạnh, điểm yếu cũng như những thách thức và cơ hội của ngành đó.
Phân tích về đối thủ cạnh tranh là phân tích các đối thủ chiến lược của doanh nghiệp trong cùng một ngành nghề đó tại khu vực hoặc trên thế giới và từ đó chúng ta có thể có được sự nhận định về những lợi thế so sánh giữa các đối thủ nhất là về đội ngũ nhân lực (khi xây dựng chiến lược phát triển, các doanh nghiệp, thậm chí các nhà hoạch định chính sách cấp quốc gia cũng thường hạn chế khi sử dụng công cụ này do thiếu thông tin).
Phân tích khả năng cạnh tranh đóng vai trò quyết định trong việc lựa chọn xây dựng và phát triển sản phẩm và dịch vụ. Phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, trước hết phải xác định được thị trường và thị phần của sản phẩm đó để có thể đầu tư bền vững, lâu dài một cách chuyên nghiệp, đảm bảo cơ cấu hợp lý đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Hay nói cách khác là phải trả lời được các câu hỏi về vị trí, sự ổn định, dự báo khả năng phát triển của thị trường, khách hàng mà chúng ta dự định nhắm tới. Ngoài ra, còn phải phân tích được các điều kiện về những yếu tố sản xuất của cả ngành đó bao gồm các chi phí đầu vào cơ bản, trực tiếp, mang tính truyền thống như: nguyên, nhiên liệu, nhân công và các chi phí đầu vào gián tiếp, mang tính cạnh tranh công nghiệp như: dịch vụ, đóng gói, chất lượng, nghiên cứu, phát triển thương hiệu, công nghệ, tài chính, hậu cần…Hơn nữa, phân tích khả năng cạnh tranh còn phải phân tích về tính liên kết của các ngành phụ trợ và có liên quan như nghiên cứu, đào tạo, xúc tiến, vận chuyển, tài chính, hải quan, đất đai…
3. Quy hoạch phát triển kinh tế quốc dân: trong một nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp cũng cần nhận thức bên cạnh thị trường, người tiêu dùng còn có một chủ thể kinh tế quan trọng quyết định chất lượng của môi trường kinh doanh và đó là Nhà nước, Chính phủ. Một quy hoạch phát triển ngành, khu vực và quốc gia chắc chắn cần phải là nền tảng phát triển chiến lược kinh doanh doanh nghiệp. Nói theo một cách khác, một quy hoạch phát triển kinh tế xã hội với các ngành ưu tiên phát triển rõ ràng, nhất quán được Chính phủ hoạch định và ủng hộ sẽ tạo ra sức cạnh tranh bền vững của cộng đồng doanh nghiệp. Ở đây cũng phải là các điểm nhấn trong hoạt động xúc tiến để nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành nghề và VCCI. Theo các nhà chiến lược, trong bối cảnh chuyển dịch và tái cấu trúc nền kinh tế của quốc gia cũng như trong khu vực và quốc tế, sự lựa chọn và quy hoạch các ngành nghề ưu tiên cho Việt Nam nên tập trung vào 5 lĩnh vực:
1. - Nông nghiệp (áp dụng công nghệ sinh học): Đảm bảo an ninh lương thực, từng bước phát triển công nghiệp thực phẩm (bảo quản thực phẩm), thực phẩm chức năng và mỹ phẩm.
2. - Chế biến khoáng sản, điện tử tin học, công nghiệp hỗ trợ.
3. - Dịch vụ (Du lịch, Đào tạo, Y tế, Logistics, Tài chính và Ngân hàng, An sinh xã hội).
4. - - Đô thị, Giao thông và Năng lượng.
5. - Công nghệ cao (IT…) và Công nghiệp quốc phòng.
Tóm lại, trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò chính đảm bảo sự thành công. Ở Việt Nam nói chung khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp và không bền vững so với khu vực và thế giới. Bên cạnh nhiều yếu tố khác, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, khả năng sử dụng các công cụ phân tích thị trường của doanh nghiệp và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia là các giải pháp quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp đảm bảo hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiến sĩ Đoàn Duy Khương
Phó Chủ tịch VCCI, Chủ tịch ASEAN BAC Việt Nam