10:57:22 | 13/1/2015
Nền kinh tế thế giới và Việt Nam hiện đang trong giai đoạn yếu ớt. Để thúc đẩy nền kinh tế đất nước tăng trưởng có chất lượng, các kênh huy động vốn cần được rà soát lại, phát hiện các nhân tố kìm hãm và gây rủi ro, kém hiệu quả cho thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Vốn FDI, kiều hối là “điểm sáng” cho nền kinh tế
Việt Nam là một trong những nước tăng trưởng dựa nhiều vào vốn đầu tư, với mức vốn đầu tư đạt mức cao nhất năm 2007 ( gần 43% GDP). Tuy nhiên, sự phụ thuộc quá mức vào vốn đầu tư đã giảm dần, nhất là trong giai đoạn 2013 đến nay. Tại Việt Nam, các nguồn vốn cho phát triển kinh tế bao gồm vốn tín dụng ngân hàng, phát hành chứng khoán (bao gồm cổ phiếu và trái phiếu). Xét theo sở hữu, các nguồn vốn bao gồm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI), vốn DN trong nước, vốn đầu tư nhà nước. Vốn ODA cũng đóng góp cho phát triển kinh tế, nhất là khi một phần vốn ODA được cho vay lại DNNN. Kiều hối cũng đóng góp phần quan trọng, khi một phần lớn (50-70% theo tổng giá trị) được đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Vốn tự có của DN, người dân cũng có ý nghĩa cho tăng trưởng, nhất là khi vốn huy động từ thị trường tín dụng, chứng khoán gặp khó khăn.
Theo TS Võ Trí Thành, trong những năm gần đây, tốc độ tăng tín dụng nền kinh tế đã giảm rất mạnh, từ mức tăng 53,9% ( 2007) xuống 39,6% ( 2009) còn 12% năm 2011, 8,91% năm 2012 và tăng rõ rệt, lên khoảng 12% năm 2013. Năm 2014, dự kiến mức tăng trưởng tín dụng cũng tương đương. Lưu ý là tín dụng cho nền kinh tế đã tăng khoảng 30%/năm trong giai đoạn 2006-2010, vào dạng cao nhất trong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi, cao gấp đôi so với TQ (15%) trong cùng giai đoạn, trong khi nước này đạt GDP trung bình cao hơn Việt Nam ( khoảng 9% so với khoảng 7%) và dẫn đến tăng trưởng đầu tư cao hơn Việt Nam ( đỉnh điểm cao nhất là 52% so với mức 43% GDP).

Trong chừng mực đáng kể, theo TS Võ Trí Thành, điều này thể hiện rõ nét việc tăng vốn tín dụng cao chủ yếu là tài trợ trực tiếp cho đầu cơ “ lòng vòng” qua các kênh như chứng khoán, bất động sản và vàng trong cùng giai đoạn, tạo nên những làn sóng biến động thái quá trên các thị trường này. Tuy vậy, từ năm 2012 đến nay, tín dụng đã chuyển từ các lĩnh vực đầu cơ sang phục vụ sản xuất, kinh doanh. Đáng lưu ý là mức tăng trưởng tín dụng 12-13% năm 2013 và 2014 có thể không “ thuần khiết” là tăng trưởng tín dụng trực tiếp cho các DN, mà có thể do các ngân hàng thương mại mua trái phiếu.
Bên cạnh đó, huy động vốn qua thị trường cổ phiếu (cả niêm yết lẫn OTC) gặp khó khăn kể từ năm 2010 đến nay. Lý do quan trọng nhất, theo TS Thành, đó là thị trường chứng khoán giảm rất mạnh, thể hiện ở việc tổng vốn hóa thị trường giảm mạnh. Ngược lại, phát hành trái phiếu công ty, đấu thầu trái phiếu chính phủ vẫn tăng mạnh trong thời gian gần đây.
Điểm sáng lớn trong nền kinh tế VN là nguồn vốn FDI thực hiện đã tăng mạnh trong những năm qua, bất chấp giai đoạn khó khăn toàn cầu và trong nước. Đây là khu vực đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh DN trong nước gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Hiện những rào cản đối với với FDI vào là rất ít, ngược lại, VN quá hấp dẫn đối với những dự án FDI trên phương diện chế tài về ô nhiễm, đóng thuế, chuyển giao công nghệ còn yếu, trong khi hạn chế về các dự án gây nguy hại cho an ninh quốc gia vẫn không nhiều trên thực tế.
Bên cạnh đó, kiều hối là nguồn tài chính quan trọng, ít kéo theo rủi ro cho nền kinh tế và chủ quyền quốc gia đã tăng mạnh trong hai thập niên qua, với tổng cộng khoảng 80,4 tỷ USD, tăng từ mức 35 triệu USD năm 1992 lên 11 tỷ USD năm 2013. Hiện có thể nói, rất ít rào cản trong lĩnh vực này, nhất là khi VN không đánh thuế thu nhập cá nhân từ nhận kiều hối, không hạn chế số tiền gửi về nước và cho phép người nước ngoài mua nhà. Vấn đề đáng lưu tâm là mức kiều hối phi chính thức được ước tính khá cao, gây khó khăn cho quản lý tiền tệ, cung tiền, đặc biệt là các hoạt động rửa tiền và tài trợ cho buôn lậu ma túy, phụ nữ.
Ngoài ra, vốn ODA cho vay cũng giữ được nhịp điệu tăng trưởng tốt trong thời gian qua, kể cả giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế. Tuy vậy, khả năng hấp thu các dự án ODA, keỉem soát tham nhũng hữu hiệu và hài hòa các thủ tục giải ngân giữa VN và các nước đối tác rất đáng được lưu tâm.
Tìm cách tăng cầu tín dụng, giảm nợ xấu
Để khơi thông các luồng vốn, theo TS Võ Trí Thành, vấn đề quan trọng, đa mục đích đầu tiên là có những chính sách ngắn hạn và dài hạn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là một giải pháp chung quan trọng giúp khơi thông tín dụng (tăng cầu tín dụng và giảm nợ xấu) và thị trường chứng khoán ( giúp tăng phát hành chứng khoán). Điều này cũng giúp tăng thu hút vốn FDI và kiều hối.
Trong đó, đặc biệt chú trọng đến việc tái cấu trúc hệ thống tài chính theo hướng cân đối hơn thông qua lành mạnh hóa tổ chức tín dụng và nâng cao vai trò TTCK trong huy động vốn dài hạn cho DN. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong dài hạn, việc tạo lập một thị trường vốn có cấu trúc cân đối hơn ( lượng vốn dài hạn được huy động vốn qua TTCK và thị trường tín dụng là tương đương nhau) là rất quan trọng để có được một thị trường hoạt động an toàn và hiệu quả, giảm nhẹ các rủi ro của hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng quản trị DN.
Mặt khác, TS Thành cho rằng, Việt Nam cần áp dụng rộng rãi chuẩn mực quốc tế và bảo đảm tính trung thực, hiệu lực, chế tài thực thi cao trong áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế, báo cáo tài chính quốc tế và hệ thống thống kê, định giá tài sản DN. Trong đó, tiếp tục hoàn thiện quy chế kiểm toán độc lập đối với các TCTD cho phù hợp với thực tiến VN và thông lệ quốc tế, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, hoạt động của cơ quan kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đặc biệt, cần chú trọng tái cơ cấu thị trường tín dụng ngân hàng. Đến nay các bản đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đã khá đầy đủ các định hướng, giải pháp chính để tái cơ cấu. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh trọng tâm của quá trình tái cơ cấu là cổ phần hóa các ngân hàng thương mại trong nước, nhất là trong chào bán cổ phiếu và niêm yết trên TTCK nước ngoài ( nhất là khi TTCK trong nước đang yếu như hiện nay).
Bên cạnh đó, TS Thành cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục tái cơ cấu TTCK, trong đó lành mạnh hóa thị trường cổ phiếu và thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu, nhất là trái phiếu công ty. Các nhóm giải pháp định hướng cũng đang trong quá trình triển khai và thể chế hóa. Tuy nhiên, trọng tâm cải cách mới trong thời gian tới là đẩy mạnh (có thể ép) cổ phần hóa DNNN lớn, nhất là các Ngân hàng TM nhà nước chào bán chứng khoán ( nhất là cổ phiếu) thông qua niêm yết cổ phiếu, chứng chỉ lưu ký toàn cầu ở nước ngoài. Đồng thời, đổi mới mô hình và cách thức giám sát thị trường tài chính để đảm bảo quá trình tái cơ cấu tài chính và phân bổ, khơi thông các kênh huy động vốn đạt hiệu quả cao.Trong dài hạn, cần chuyển từ mô hình giám sát theo định chế/chuyên ngành sang mô hình giám sát hợp nhất ( một phần rồi toàn bộ). Để làm tốt những yêu cầu này, 5-10 năm tới, VN cần phân định rõ, tăng cường chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý, nhất là đối với NHNN, UBCKNN/Bộ tài chính.
Cuối cùng, cơ quan quản lý nhà nước cần, điều chỉnh chính sách thu hút FDI thông qua nghiên cứu, khuyến khích, thu hút các dự án FDI vào một số ngành, lĩnh vực tháo gỡ ách tắc, yếu kém của nền kinh tế và tạo điều kiện cho thu hút đầu tư. Không thu hút FDI bằng mọi giá mà chủ động hơn trong lựa chọn đối tác để hợp tác đầu tư, tập trung vào những phân ngành, sản phẩm mà Vn có lợi thế và mong muốn phát triển….
Anh Mai
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI