10:27:52 | 2/10/2015
Đây là chủ đề cuộc hội thảo do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và VCCI phối hợp tổ chức vừa qua tại Hà Nội, thu hút đông đảo đại diện các DN tham gia. Hội thảo được tổ chức nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ đồng hành, hỗ trợ giữa Ngân hàng và Doanh nghiệp trước thềm hội nhập sâu rộng.
Theo xếp hạng của ngân hàng thế giới, Việt Nam là 1 trong 30 nền kinh tế có khả năng tiếp cận tài chính tốt nhất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề tiếp cận vốn.

TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI đánh giá, mặc dù NHNN đã rất thành công trong việc ổn định tỷ giá, giảm lãi, nhưng ở thời điểm hiện nay, lạm phát rất thấp, chưa đầy 1%, khả năng hết năm 2015 sẽ là 2%. Điều đó cho thấy lãi suất hiện nay tương đối cao so với lạm phát, do vậy, NHNN cần tính đến việc giảm thêm lãi suất để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiện nay, rất nhiều NHTMCP đã hết room tín dụng, không có khả năng cho vay tiếp. Do vậy, NHNN cần đưa ra chính sách nới lỏng room tín dụng một cách hợp lý, linh hoạt, công bằng, minh bạch. Đây là điều rất cần thiết để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn vốn. NHNN cũng nên tiếp tục kiên định chủ trương của mình trong việc tái cấu trúc nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng lành mạnh.
Ông Lộc cũng cho rằng, các NHTM phải triển khai mạnh mẽ việc cho vay dựa trên cơ sở tín chấp của NHNN. Bản thân ngân hàng cũng phải minh bạch để có thể đồng hành, giúp doanh nghiêp sử dụng hiệu quả nguồn tín dụng từ ngân hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng đến 90% vốn ngân hàng. Đây là vấn đề bất hợp lý về cơ cấu nguồn vốn. Trong thời gian tới, ngân hàng cần tính toán lại để đảm bảo sự cân đối giữa vốn tự có của doanh nghiệp và vốn cho vay của ngân hàng.
Bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như: điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá chủ động, linh hoạt nhằm bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. NHNN cũng triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng một cách hiệu quả như chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện miễn giảm lãi, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, kéo dài thời hạn cho phép các tổ chức tín dụng được cho vay bằng ngoại tệ đối với một số nhu cầu vốn, cho vay thí điểm theo mô hình liên kết ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, chương trình tín dụng liên kết 4 nhà trong xây dựng…
Bên cạnh đó, NHNN cũng tích cực phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố triển khai chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Theo thống kê, tính đến cuối tháng 8/2015, tổng số tiền các ngân hàng cam kết hỗ trợ cho các doanh nghiệp theo chương trình đạt trên 458.000 tỷ đồng. Những giải pháp trên được đanh sgiá là đã góp phần tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phục hồi và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, làm thế nào để mối quan hệ đối tác giữa DNVVN và ngân hàng được thuận lợi và bền chặt? Theo ông Fung Kai Jin, Tổng GĐ Ngân hàng VP Bank, Giám đốc khối DNVVN, cả hai bên ( DN và ngân hàng) cần xác định rõ mối quan hệ này là đối tác kinh doanh bền vững lâu dài. Các DNVVN cần cải thiện tính minh bạch trong báo cáo tài chính bằng cách cung cấp đầy đủ các thông tin và thường xuyên tương tác với ngân hàng. Với báo cáo tài chính minh bạch, ngân hàng có thể đẩy mạnh công tác quản trị rủi ro để có thể mở rộng cửa vay vốn cho các DNVVN.
Theo đánh giá của TS Nguyễn Minh Phong, các DN trong thời gian tới sẽ cần rất nhiều vốn vì họ phải đổi mới công nghệ, cần vốn đề đáp ứng yêu cầu về tái cơ cấu, giải quyết nợ tồn kho. Tuy nhiên, theo ông Phong, các DN ngoài trông chờ vào vốn từ ngân hàng cũng nên tìm tới các nguồn vốn thông qua các hoạt động như: có vốn tự có, tăng huy động vốn trên thị trường chứng khoán; tăng cổ phần hóa, tăng hoạt động M&A; tham gia vào chuỗi liên kết, các hoạt động để nhận các gia công của các tập đoàn lớn; thực hiện lựa chọn dự án đầu tư.
TS Phạm Thị Thu Hằng, Tổng thư ký VCCI cho biết, các ngân hàng hiện nay đang cơ cấu nguồn vốn theo các hướng cho vay ngắn và dài hạn đối với các ngành, và các đối tượng DN. Trong cơ cấu nguồn vốn này, nguồn vốn cho DNVVN và nông nghiệp là đang khó khăn nhất. Theo đánh giá chung, NHNN và các NHTM đã làm tốt đầu vào, tuy nhiên, việc cho ra các sản phẩm dành cho DNVVN còn rất ít. Vì vậy, bà Hằng cho rằng, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích để các NHTM thực sự quan tâm và xây dựng các gói chính sách để các ngân hàng sẵn sàng xây dựng gói sản phẩm tín dụng cho DNVVN. Đồng thời, các DNVVN không nên chỉ trông chờ vào ngân hàng mà cũng nên tính tới việc huy động từ nguồn khác, ví dụ như thị trường vốn hiện nay đang rất phát triển. Các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài đang rất quan tâm tới hai ngành khai khoáng và chế biến thực phẩm. Đây chính là cơ hội cho các DNVVN tận dụng và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
|
TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý Kinh tế Trung ương Với diễn biến hiện nay, tăng tín dụng cũng chỉ 13,7% và không thể tăng lên 30% như trước đây. Do vậy, 5 đến 6 tháng nữa sẽ không thể giảm thêm lãi suất bởi lạm phát cao do đồng đô la đang lên giá và những năm sau nó vẫn sẽ lên giá. Do đó, ngân hàng giữ được lãi suất như hiện nay trong ngắn hạn đã là một thành công. Tổng đầu tư xã hội giảm bởi ngân sách khó khăn, nguồn thu dầu 7-8 tháng đầu năm giảm. Thâm hụt ngân sách năm nay có thể lên 5% do áp lực chi rất lớn. Doanh nghiệp phải tự tìm cơ hội cho mình trong việc Việt Nam ký kết FTA, tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN+6, trong các ngành phân phối, bán lẻ, giải trí, logictis, kết nối hạ tầng…Bên cạnh đó, Việt Nam là điểm đến của các tập đoàn kinh tế thế giới, do đó doanh nghiệp cũng nên tận dụng và kết nối với các doanh nghiệp nước ngoài. Đối với DNNVV, các lĩnh vực phù hợp nhất hiện nay là các ngành về IT, công nghệ xanh và ngành công nghiệp sáng tạo, biểu tượng. TS Cấn Văn Lực – chuyên gia ngân hàng Hiện tại nhu cầu vay và sức hấp thụ vốn còn yếu. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do tốc độ giảm hàng tồn kho chưa đáng kể; tiêu dùng thực có tăng, nhưng còn khiêm tốn; sản xuất kinh doanh (chỉ số PMI) chưa thực sự theo đà mở rộng; thiếu các dự án đầu tư có hiệu quả; quá trình tái cơ cấu các TCTD diễn ra quyết liệt hơn. Một số tổ chức tín dụng tập trung tái cơ cấu và/hoặc chưa thể cho vay nhiều; nợ xấu tăng nhẹ do áp dụng qui định theo thông lệ và chưa thể xử lý dứt điểm; tái cơ cấu DNNN và đầu tư công còn chậm…. Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách như bảo lãnh cho doanh nghiệp (nhất là SMEs) vay vốn chưa được đẩy mạnh; hướng dẫn thực hiện đôi khi còn chậm (một phần do phối hợp chính sách).. v.v. Ngoài ra, cho vay tín chấp chưa nhiều, hệ thống xếp hạng nội bộ doanh ghiệp và cá nhân của các tổ chức tín dụng cũng như của SCIC cần tiếp tục hoàn thiện. Mặt khác, thị trường chứng khoán Việt Nam trồi sụt từ đầu năm đến hết 18/9/2015, rủi ro từ Trung Quốc như rủi ro khủng hoảng thừa, rủi ro tín dụng… cũng đã tác động đến nền kinh tế Việt Nam. Ông Lê Đào Nguyên – Ủy viên HĐQT Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Nghị định 67/2014/NĐ – CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thuỷ sản là bước đột phá trong chính sách phát triển ngành thủy sản từ trước đến nay. Ngay từ khi có chủ trương của Chính phủ về các chính sách phát triển thuỷ sản, BIDV đã tích cực, chủ động tham gia công tác hoàn thiện cũng như triển khai Nghị định 67, trong đó chủ động tiếp cận, làm việc trực tiếp với từng chủ tàu, ngư dân để tìm ra nút thắt trong việc cho vay vốn, từ đó đưa ra được các giải pháp phù hợp với thực tế. Trong quá trình triển khai, BIDV nhận thấy một trong những nút thắt lớn nhất trong triển khai tại các NHTM là việc bà con ngư dân thiếu hụt hoặc không chứng minh được phần vốn đối ứng phải tham gia theo phương án vay đóng mới tàu. Ngoài ra, để giải quyết các khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, Thủ tướng Chính phủ có văn bản chỉ đạo UBND các tỉnh/thành phố chưa phê duyệt hoặc đã phê duyệt nhưng số tàu phê duyệt thấp hơn 20% số lượng tàu được phân bổ cần đẩy nhanh tiến độ phê duyệt danh sách người vay vốn để các chủ tàu/ngư dân sớm tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Bộ NN&PTNT và UBND các tỉnh/thành phố nhanh chóng công bố các mẫu thiết kế tàu vỏ gỗ và vật liệu mới để ngư dân lựa chọn. Đặc biệt, Ban chỉ đạo triển khai Nghị định 67 tại các địa phương cần vào cuộc quyết liệt hơn để triển khai Nghị định 67 có hiệu quả và đi vào cuộc sống. Đồng thời, cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các NHTM trong quá trình xét duyệt danh sách người vay vốn đủ điều kiện và tùy theo nguồn lực của địa phương để đưa ra chính sách hỗ trợ đặc thù cho ngư dân, doanh nghiệp như hỗ trợ về phí đào tạo, phí thiết kế mẫu tàu, phí thay đổi thiết kế mẫu…. |
Anh Mai
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI