10:09:55 | 22/10/2015
Cạnh tranh không lành mạnh là câu chuyện “ nhãn tiền”
Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI cho biết, trong khi hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đến nay đã là đối tượng của cả trăm vụ kiện phòng vệ thương mại ở nước ngoài thì Việt Nam mới chỉ sử dụng công cụ này 4 lần, với 3 vụ kiện tự vệ và 1 vụ kiện chống bán phá giá.

Tổng quan các FTA mà Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán, theo bà Trang, tính từ FTA đầu tiên mà Việt Nam tham gia (CEPT/AFTA) năm 1996 đến nay, Việt Nam đã ký kết 10 FTAs với 22 đối tác, trong đó có 1 FTA trong khuôn khổ ASEAN, 6 FTA ASEAN+ với các đối tác bên ngoài ASEAN, 3 FTA song phương (với Nhật Bản, Chi Lê, Hàn Quốc), 1 FTA đa phương (với Liên minh kinh tế Á Âu). 8 trong số 10 FTA đã có hiệu lực và đang được thực thi trên thực tế (2 FTA mới ký trong năm 2015, bao gồm FTA với Liên minh Á Âu chưa phát sinh hiệu lực).
“Bản chất của FTAs là xóa bỏ hàng rào thuế quan và ngay lập tức thị trường Việt Nam sẽ được mở cửa hàng hóa. Nếu như trong WTO, Việt Nam chỉ cam kết cắt giảm thuế cho khoảng 1/3 số dòng thuế thì trong hầu hết các FTA đã ký Việt Nam cam kết xóa bỏ tới 80-90% số dòng thuế. Và câu chuyện về cạnh trạnh không lành mạnh trên thị trường hàng hóa là câu chuyện nhãn tiền”, bà Trang nói.
Như vậy, với những động thái này, hàng hóa từ các nước có FTAs với Việt Nam đã có được con đường hầu như thuận lợi và không rào cản để vào thị trường Việt Nam. Và về mặt lý thuyết, nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh gắn liền với thương mại hàng hóa quốc tế khi lưu lượng hàng hóa nhập khẩu càng gia tăng dưới tác động và hiệu ứng của các FTA thì nguy cơ này cũng sẽ tăng tương ứng.
Trên thực tế, đối với riêng trường hợp của Việt Nam, nguy cơ này có thể còn cao hơn khi mà các nước có FTAs đang nhập khẩu lớn nhất vào Việt Nam đồng thời là những nước có hàng hóa bị kiện phòng vệ thương mại nhiều nhất trên thế giới (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan, Thái Lan…); Các loại hàng hóa mà Việt Nam đang nhập khẩu từ các đối tác FTAs cũng đồng thời thuộc các nhóm hàng hóa đứng đầu trong danh mục các loại hàng hóa bị kiện phòng vệ thương mại nhiều nhất trên thế giới.
Theo khảo sát 1000 DN được thực hiện cuối năm 2014 của Hội đồng Tư vấn phòng vệ thương mại Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI, có khoảng 60-70% các doanh nghiệp được hỏi đã biết về công cụ phòng vệ thương mại, tuy nhiên, điểm hạn chế là hiểu biết của các DN mới chỉ dừng lại ở mức độ “sơ khởi”, nghe nói tới nhưng không có kiến thức sâu hơn về công cụ.
Khảo sát không cho thấy thống kê nào về sự tồn tại của các nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu, nhưng lại cho biết cảm nhận của các doanh nghiệp về sự tồn tại của các nguy cơ này trên thị trường Việt Nam. Theo đó, có tới gần 70% DN cho rằng hàng hóa nước ngoài có thể bán với giá rất thấp vào Việt Nam là do các biện pháp bất hợp pháp, trong đó có nguyên nhân chính là Chính phủ nước ngoài trợ cấp dưới các hình thức khác nhau hoặc do phía nước ngoài cố tình bán giá rẻ để chiếm lĩnh thị trường Việt Nam giai đoạn đầu.
Các nguyên nhân “lành mạnh” khác giúp hàng hóa nước ngoài có thể bán với giá rất thấp vào Việt Nam theo đánh giá của các doanh nghiệp chỉ chiếm thiểu số, ví dụ do phía nước ngoài có chi phí sản xuất thấp nên giá thành thấp, do thuế nhập khẩu vào Việt Nam thấp hoặc đã được loại bỏ thuế…
Sức mạnh của tập thể
Theo đánh giá của bà Trang, kiện phòng vệ thương mại không phải là “cuộc chơi” của mỗi DN riêng lẻ, nó là “cuộc chơi tập thể” hay nói cách khác là chiến lược hay hành động của cả một ngành sản xuất nội địa sản phẩm liên quan. Để sử dụng công cụ này, các DN phải tập hợp lại với nhau thành một lực lượng đủ sức đại diện cho một ngành sản xuất nội địa liên quan.
Bên cạnh đó, DN cũng cần phải tập hợp những bằng chứng bán phá giá, bán hàng được trợ cấp, bằng chứng về những thiệt hại gây ra đối với mình, thuê luật sư tư vấn theo kiện… Đây là những yêu cầu cốt yếu cho mọi nguyên đơn trong các vụ kiện phòng vệ thương mại. Những công việc này đòi hỏi phải có chi phí lớn, vì vậy nếu không có sự chuẩn bị về nguồn lực, hiệu quả sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại sẽ rất hạn chế.
Kết quả điều tra của VCCI cho thấy, có tới 86% số DN cho rằng nếu đi kiện thì sẽ gặp khó khăn trong huy động tài chính cho việc này (trong đó 52% cho là khá khó khăn, 34% cho rằng việc huy động này là rất khó khăn). Chỉ có 2% cho rằng chi phí kiện phòng vệ thương mại sẽ không là vấn đề gì lớn, 12% cho rằng dù có thể khó khăn nhưng sẽ là không quá lớn.
Bà Trang cho rằng, dường như các DNVN chưa có bất kỳ chuẩn bị vật chất gì sẵn sàng cho việc sử dụng công cụ kiện phòng vệ thương mại khi cần thiết. Đối với một nhóm nhỏ cho rằng việc huy động chi phí đi kiện không khó khăn lắm có lẽ là do các DN này có tiềm lực tài chính tương đối mạnh chứ không phải đã có một khoản dành riêng cho việc này.
Đội ngũ nhân lực theo kiện cũng là vấn đề đáng nói. Với câu hỏi “Nếu một thời điểm nào đó doanh nghiệp có ý định đi kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, liệu nhân lực của doanh nghiệp có thể đảm nhiệm việc này chưa?”, chỉ 11% doanh nghiệp trả lời cho rằng các cán bộ nhân viên của doanh nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu. 48% cho rằng cán bộ nhân viên của mình có thể thực hiện việc này nhưng khó khăn. Và có tới 41% doanh nghiệp trả lời hoàn toàn không thể.
Bởi vậy, theo nhiều chuyên gia, việc tìm kiếm, đề xuất các giải pháp thích hợp để nâng cao khả năng hiện thực hóa các vụ kiện phòng vệ thương mại ở VN trong thời gian tới cần được tập trung thực hiện. Các đề xuất này cần xuất phát từ các bất cập trong thực tiễn và hướng tới cả hai nhóm mục tiêu, năng lực của chính các DN có nhu cầu sử dụng công cụ phòng vệ thương mại và cơ chế từ phía Nhà nước để DN có thể làm được điều này.
Việc sử dụng hay không các công cụ phòng vệ thương mại trên thực tế phụ thuộc hầu như toàn bộ vào các DN, hiệp hội doanh nghiệp có tư cách đứng đơn có muốn và có năng lực sử dụng các công cụ này hay không, các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ phòng vệ thương mại. Vì vậy, theo Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI, trước hết cần tập trung vào việc hỗ trợ cho nhóm chủ thể quan trọng này. Trong đó, việc tiếp tục tăng cường nhận thức của DN về công cụ phòng vệ thương mại có điểm thuận lợi nếu tiếp được đà hiểu biết hiện nay của họ. Mặt khác, cách thức tăng cường nhận thức sẽ phải sử dụng tới các kênh thông tin cho phép các DN hiểu sâu hơn, chính xác và đúng bản chất hơn về các công cụ này.
Đối với VCCI, cơ quan này cần tăng cường tư vấn và định hướng cho doanh nghiệp, tăng cường kết nối và hướng dẫn doanh nghiệp.
Đề xuất đối với các cơ quan Nhà nước: cần công khai thông tin, hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước, đồng thời, có cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp bằng các hình thức như: đơn giản hóa, cải cách thủ tục hành chính liên quan tới việc đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp gắn với mục tiêu kiện phòng vệ thương mại; phối hợp hiệu quả, kịp thời với cơ quan điều tra trong việc cung cấp thông tin phục vụ điều tra. Đặc biệt, quan trọng nhất, Nhà nước cần hoàn thiện về cơ sở pháp lý đối với công cụ phòng vệ thương mại.
Quynh Chi
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI