Khoa học công nghệ: Động lực phát triển nền nông nghiệp hiện đại

11:23:09 | 3/12/2025

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 tiếp tục nhấn mạnh khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới giá trị gia tăng cao hơn. Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu.

Để tìm hiểu thêm thông tin, phóng viên đã có buổi trao đổi với ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường. 


Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu tại Diễn đàn chỉnh sửa gen trong nông nghiệp

Thưa Thứ trưởng, trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ sinh học được xem là “chìa khóa” cho nông nghiệp hiện đại. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai những định hướng hoặc chương trình trọng điểm nào để thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất?

Tinh thần phát triển KHCN đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đặc biệt là định hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ và kinh tế tuần hoàn. Gần đây, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 tiếp tục nhấn mạnh KHCN và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới giá trị gia tăng cao hơn.

Trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá. Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gen, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.

Đến nay, nước ta đã xuất khẩu hơn 7 triệu tấn gạo, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu và kỳ vọng trong năm 2025, có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67 - 70 tỷ USD là hoàn toàn có thể. Không chỉ dừng ở con số xuất khẩu, cơ cấu ngành cũng đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Tỷ trọng chế biến ngày càng tăng, thay thế dần sản xuất thô, trong khi nông nghiệp xanh, tuần hoàn và chuyển đổi số bắt đầu hình thành rõ nét ở nhiều địa phương. Đặc biệt, công nghệ bảo quản và chế biến đã giúp giảm tổn thất sau thu hoạch từ 5 - 10%, đồng thời kéo dài thời hạn bảo quản, nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường quốc tế.


Cơ giới hóa nông nghiệp đã có những bước tiến mạnh mẽ

Song song với đó, quá trình cơ giới hóa nông nghiệp cũng có bước tiến mạnh mẽ. Hiện nay, tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất đã đạt trên 95%; các mô hình sử dụng drone, cảm biến IoT, trí tuệ nhân tạo và robot nông nghiệp đang dần được triển khai tại những vùng sản xuất hàng hóa lớn. Nhờ vậy, năng suất lao động được cải thiện, chi phí sản xuất giảm và thu nhập của nông dân từng bước nâng cao.

Triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW, Bộ Nông nghiệp và Môi trường được giao 188 nhiệm vụ. Đến nay, 55 nhiệm vụ đã hoàn thành, 125 đang thực hiện. Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn giống, chăn nuôi, trồng trọt và chế biến nông sản. Việc Chính phủ ban hành Quyết định về phát triển công nghiệp sinh học là bước đi chiến lược, mở ra không gian phát triển mới cho Việt Nam. Cùng với đó, cơ chế chính sách đang được hoàn thiện nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn cho các nhà khoa học và doanh nghiệp đầu tư.

Một trong những thách thức lớn là thiếu cơ chế khuyến khích và đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ sinh học nông nghiệp. Bộ đang có giải pháp nào để khắc phục và thu hút nguồn lực này, thưa Thứ trưởng?

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đang sở hữu lực lượng hơn 11.400 nhà khoa học, cùng với mạng lưới 21 tổ chức nghiên cứu khoa học và hơn 16.000ha đất, nhưng hiệu quả khai thác vẫn còn rất khiêm tốn.

Mặc dù chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, nhưng một loạt những tồn tại và điểm nghẽn về thể chế, cơ chế tài chính, tổ chức, đến tư duy điều hành đang cản trở việc phát huy hiệu quả tiềm năng sẵn có. Một trong những vấn đề cốt lõi là sự chậm trễ trong đổi mới thể chế, đặc biệt là các quy định liên quan đến cơ chế trọng dụng nhân tài. Hiện nay, chưa có hành lang pháp lý đủ linh hoạt để thu hút, giữ chân đội ngũ nhà khoa học trình độ cao, cũng như xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh yếu tố nền tảng cho bất kỳ sự phát triển đột phá nào.

 Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan dự thảo sửa đổi Luật Đa dạng sinh học, trong đó sẽ làm rõ khái niệm về sinh vật biến đổi gen (GMO), cùng xây dựng các quy định, tiêu chuẩn quản lý phù hợp với thực tiễn quốc tế. Việc này không chỉ nhằm bảo đảm an toàn sinh học và tuân thủ các cam kết quốc tế, mà còn tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng các tiến bộ khoa học mới.

Dù nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để KHCN phát huy hiệu quả. Do đó, cần tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, tránh tình trạng họ trăn trở với nghiên cứu, nhưng vẫn lo lắng cho cuộc sống. Việc này sẽ góp phần tạo ra một “Khoán 10 mới trong KHCN, giúp “cởi trói” cho nhà nghiên cứu, khuyến khích sáng tạo và khơi dậy tinh thần dấn thân trong cộng đồng khoa học”.

Trong tương lai gần, ngành sẽ được định vị ra sao nếu tận dụng tốt các đột phá từ công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo hay chuyển đổi số, thưa Thứ trưởng?

KHCN và tổ chức lại sản xuất được Bộ đánh giá là 02 trụ cột quan trọng trong đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng hiện đại. Cả 02 khía cạnh trên đều có liên quan mật thiết với chuyển đổi số.

Về tầm nhìn, đến năm 2030 chuyển đổi số sẽ góp phần tạo dựng môi trường, hệ sinh thái số nông nghiệp làm nền móng, kiến tạo thể chế, thúc đẩy chuyển đổi từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”; phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao theo hướng chú trọng nông nghiệp thông minh, nông nghiệp chính xác, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế.

KHCN không chỉ là động lực mà còn là then chốt cho sự phát triển nông nghiệp bền vững. Bộ cũng đã xác định các định hướng chiến lược tập trung thực hiện trong thời gian tới. Trước hết, Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng, gắn kết chặt chẽ giữa viện, trường, doanh nghiệp. Hợp tác quốc tế sẽ được mở rộng, đặc biệt trong các lĩnh vực chế biến sâu, logistics và cơ giới hóa thông minh.

Đồng thời, chú trọng thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu khoa học, huy động nguồn lực từ ngoài ngân sách nhà nước nhằm tạo thêm động lực cho đổi mới sáng tạo. Xây dựng các mô hình chuỗi giá trị nông sản ứng dụng công nghệ cao, có truy xuất nguồn gốc minh bạch sẽ là nền tảng để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong nước và quốc tế.

Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!

Minh Ngọc  (Vietnam Business Forum)