Kinh tế năm 2015: Thận trọng tránh rủi ro

10:42:52 | 15/1/2015

Những ngày đầu năm 2015, nhiều chuyên gia kinh tế vẫn tỏ ra lo ngại và thận trọng khi nhận định về nền kinh tế. Trong đó có hai vấn đề nổi cộm là: Đẳng cấp phát triển của nền kinh tế thấp và cơ cấu kinh tế thiếu năng lực cạnh tranh. Đó cũng là nội dung chính của Hội thảo Tái cơ cấu kinh tế Việt Nam – những rủi ro phát triển” do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức mới đây.

Chưa thực sự khởi sắc

Thận trọng khi nhận định về kinh tế trong thời gian qua, PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho rằng kết quả phục hồi kinh tế chưa được như kỳ vọng. Còn nếu nhận định nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi, có dấu hiệu khởi sắc thông qua tiêu chí GDP là chưa bao quát hết. Đành rằng sức khỏe nền kinh tế đã có bước hồi phục nhất định song những rào cản trong phát triển vẫn còn đó.


Nếu nói kinh tế Việt Nam phục hồi, khởi sắc thông qua tốc độ tăng trưởng GDP thì chưa thể phản ánh hết thực chất nền kinh tế vì phục hồi chỉ có nghĩa khỏe hơn một tí, nhưng không hẳn căn bệnh đã được chữa trị. Ông Thiên nêu dẫn chứng, nếu trong năm 2014 công tác cổ phần hóa được coi là nhiệm vụ trong tâm số một thì kết quả thực tế là tính đến hết tháng 10/2014, cả nước mới cổ phần hóa được 143 doanh nghiệp, chưa đạt được một nửa so với kế hoạch đề ra. Nghĩa là phải cổ phần hóa 432 doanh nghiệp trong giai đoạn 2014 – 2015. Mục tiêu thoái vốn ngoài ngành dành cho các tổng công ty, tập đoàn tính đến thời điểm tháng 10/2014 cũng chỉ đạt 4.400 tỷ đồng. Và nhiệm vụ nhà nước giao cần thoái vốn trong năm 2015 là 16.367 tỷ đồng là rất khó khả thi, ông Thiên nhận định.

Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, mặc dù chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và tái cơ cấu nền kinh tế đã nói đi nói lại trong nhiều năm. Song nhìn vào kết quả đạt được chưa được bao nhiêu, bộ phận kinh tế nhà nước vẫn là chủ thể chính, nắm đa phần nguồn lực đất nước, nhưng sức cạnh tranh và thực lực yếu. Chiến lược FDI vẫn duy trì cách thức trải thải đỏ mời gọi nhà đầu tư nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp Việt vẫn chỉ dừng ở khâu gia công, giá trị thặng dư thấp, không được công ty mẹ chuyển giao công nghệ sâu, điều này dẫn đến tình trạng năng suất lao động thấp, nhập tinh xuất thô, lệ thuộc vào nhà đầu tư nước ngoài.


GS.TS Nguyễn Quang Thái đánh giá, nếu nhìn vào bức tranh tổng thể phát triển kinh tế Việt Nam sẽ thấy rất nhiều gam mầu đối chọi nhau. Riêng trong lĩnh vực phát triển kinh tế địa phương đã thấy rõ sự tư duy cục bộ, ngắn hạn, phát triển thiếu phối hợp. 63 tỉnh thành là 63 mô hình phát triển kinh tế chưa thống nhất, chạy theo thành tích, có tính ganh đua, sử dụng lãng phí tiềm năng lợi thế, thiếu sự phối hợp đồng bộ nhất quan dẫn đến không tạo ra được sức mạnh tổng hợp.


Nguy cơ giao thương biên mậu

Dẫn chứng tới gã khổng lồ Trung Quốc, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng, hiện chính sách biên mậu của Việt Nam đang gặp phải nhiều bất hợp lý, có thể dẫn đến kéo tụt cấu trúc kinh tế Việt Nam đi xuống. Ông Thiên dẫn chứng, số tiền thanh toán qua biên giới của VN với Trung Quốc (TQ) vào năm 2014 khoảng 15 tỉ USD. Nếu cộng với gần 30 tỉ USD nhập siêu chính thức từ nước này, VN nhập siêu tổng cộng 45 tỉ USD chỉ riêng thị trường này. Theo ông Thiên con số 15 tỉ giao dịch qua đường biên mậu đã là hòn đá tảng đè nặng lên nền kinh tế Việt Nam

Phân tích của TS Vũ Hoàng Linh, chuyên gia kinh tế cho thấy, gạo là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao nhất của Việt Nam thì trong năm 2014 lượng gạo tiểu ngạch xuất đi Trung Quốc đã lên tới 1 triệu tấn, khiến con đường xuất khẩu chính ngạch mặt hàng này gặp khó khăn do nguồn nguyên liệu luôn trong tình trạng hạn hẹp. Ở chiều ngược lại, Việt Nam lại nhập khẩu với số lượng lớn các mặt hàng từ Trung Quốc như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng điện tử, nguyên liệu thuốc lá, than, hóa chất... Rổ nhập khẩu lớn như trên là tình hình sản xuất kinh doanh trong nước phụ thuộc không nhỏ vào nguồn cung qua biên giới từ TQ. Điều đó dẫn tới những rủi ro về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi công nghệ, máy móc, thiết bị, hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào chất lượng thường ở mức trung bình và thấp. Mặt khác, xuất khẩu qua nước này bằng đường biên giới chủ yếu những mặt hàng có giá trị thấp, tỷ trọng thấp. Điều này lâu dài dẫn đến hệ quả làm mất cán cân trong hoạt động thương mại, khiến Việt Nam dẫn trở thành một quốc gia lệ thuộc, TS Vũ Hoàng Linh nhận định.

Ngoài ra, theo chuyên gia kinh tế, Nguyễn Thị Bích Ngọc trong bức tranh quan hệ biên mậu giữa Việt Nam và Trung Quốc đã ghi nhận sự xuất lậu hàng hóa với số lượng hàng hóa rất lớn. Theo đó, trong năm 2012 có ít nhất 5 tỉ USD từ nhập lậu. Trong khi đó, tình trạng xuất lậu nhiều nhất là xuất lậu khoáng sản. Đơn cử như mặt hàng quặng sắt, có năm phía VN thống kê xuất sang TQ 23.000 tấn nhưng nước này ghi nhận nhập từ VN tới 1,74 triệu tấn. Chỉ với quặng sắt, giai đoạn 2011 - 2012, VN thất thu do xuất lậu quặng sắt khoảng 1.700 tỉ đồng/năm. Bên cạnh đó, số liệu thâm hụt thương mại của VN với TQ do phía VN công bố luôn thấp hơn nhiều so với phía TQ. Đỉnh điểm như năm 2011, con số này chênh lệch tới 4,7 tỉ USD. Chính tình trạng chảy máu tài nguyên trên sẽ khiến các doanh nghiệp trong nước đình đốn sản xuất, mất đi nguồn nguyên liệu quý giá, bà Ngọc phân tích.

Đứng trước nguy cơ người khổng lồ Trung Quốc đe dọa đến cơ cấu kinh tế Việt Nam các chuyên gia kinh tế cho rằng, để tránh bị thất thiệt trong giao thương biên mậu, hạn chế sự phụ thuốc vào nguồn cung hàng hóa từ Trung Quốc, Việt Nam cần tìm kiếm nguồn cung và thị trường thay thế, tăng cường thực hiện các hợp đồng chính ngạch làm ăn lâu dài với doanh nghiệp Trung Quốc./.

Anh Phương