Sức ép cải cách doanh nghiệp Nhà nước

10:44:00 | 2/10/2015

Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, hiện doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chỉ chiếm 1% tổng số lượng doanh nghiệp, nhưng lại có tổng tài sản trên 3 triệu tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1,1 triệu tỷ đồng và hiện chi phối 90% dịch vụ viễn thông, 56% dịch vụ tài chính - tín dụng, 85% sản lượng điện, 70% đầu mối xuất khẩu gạo… Con số khổng lồ trên phần nào thể hiện công cuộc cải cách hệ thống DNNN sẽ gặp vô vàn khó khăn.

Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, hiện tài sản doanh nghiệp Nhà nước tương đương 80% GDP với 2,8 triệu tỷ đồng, tập trung ở nhóm các tập đoàn kinh tế lớn (chiếm gần 60%). Trong khi so sánh với các quốc gia khác trên thế giới, thì tỷ lệ này có sự chênh lệch lớn. Đơn cử ở châu Phi, nhóm này chiếm 15% GDP, châu Á nói chung là 8% GDP, Mỹ Latin là 6%. Ở các nước thuộc nhóm thu nhập cao (OECD), quy mô tài sản cũng chỉ tương đương 15% GDP. Chính sự phân bố nguồn lực không đồng đều trên đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trong một thời kỳ dài chịu nhiều hệ lụy, phát triển thiên lệch, không đồng nhất.

Thay đổi để nâng sức cạnh tranh

Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau một thời gian dài thực hiện cổ phần hóa từ 12.000 DNNN của những năm 90 đến nay Việt Nam chỉ còn khoảng 5.600 DNNN. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia nhận định tiến trình cải cách DNNN ở Việt Nam vẫn theo tốc độ “rùa bò”, quá chậm chạp.


Trong một nghiên cứu mới cho thấy có tỷ lệ là 51% đối tượng được hỏi cho biết, sự đóng góp của DNNN vào nền kinh tế Việt Nam hiện chỉ ở mức trung bình, trong khi tỷ lệ đánh giá rất tiêu cực và khá tiêu cực lần lượt là 8% và 21%, còn tỷ lệ đánh giá rất tích cực và tích cực lần lượt là 2% và 17%. Và nếu so sánh với các số liệu trước đó, cảm nhận của người dân đối với sự đóng góp của DNNN vào nền kinh tế dường như chưa có sự cải thiện đáng kể, thậm chí còn suy giảm.

Theo nhận định của TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế tài chính thuộc Bộ Tài chính, vấn đề của cải cách DNNN nhà nước liên quan đến quá nhiều ngành, nhiều cấp… Cái khó ở chỗ phần đông nhiều vị lãnh đạo DNNN nhà nước vẫn có tâm lý ỷ lại, coi Nhà nước là “bà mụ” mặc nhiên họ được hưởng nhiều quyền lợi ưu tiên ưu ái từ các hợp đồng, dự án nhóm A, mà không phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Và cũng bởi lý do đã có Nhà nước lo không sợ bị phá sản nên nếu có buộc phải cải cách thì chỉ làm theo kiểu “bắt cóc bỏ đĩa”.

Tuy nhiên, trong thời gian tới TS. Độ cũng đưa ra cảnh báo, bầu sữa Nhà nước lo cho hệ thống DNNN sẽ không còn nữa. Cụ thể, nguồn vốn từ ngân sách của Nhà nước dành cho chi đầu tư phát triển ngày càng hạn hẹp, không còn những hợp đồng lớn “màu mỡ” từ ngân sách rót xuống như trước nữa, DNNN sẽ phải tự xoay xở. Như vậy, sức ép tài chính này sẽ là động lực để đòi hỏi DNNN phải tự thay đổi, có cải cách đột phá mới có thể cạnh tranh trên thị trường.

Đồng tình với quan điểm trên, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, bối cảnh phát triển chung giờ đã khác trước, Nhà nước sẽ không và khó có thể làm tròn vai người bảo hộ cho DNNN như trước nữa, bây giờ cũng là lúc cần phải thông báo rõ ràng để họ biết để tự có ý thức, tự thay đổi để tận dụng được cơ hội đầu tư, kinh doanh từ hội nhập. Hơn nữa, trong môi trường cạnh tranh toàn cầu, môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh không chỉ đơn thuần là chuẩn mực của ASEAN 4, ASEAN 6, mà còn phải tương ứng với chuẩn mực của các nước thành viên TPP, chuẩn mực EUFTA…

Bên cạnh đó, nếu chúng ta tiếp tục thực hiện chế độ ưu tiên ưu đãi cho hệ thống DNNN sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của khu vực này và cả nền kinh tế. Vì vậy, cần áp dụng triệt để các nguyên tắc, kỷ luật thị trường trong hoạt động của DNNN, như hạch toán đầy đủ các chi phí vốn, buộc doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp phải chịu đầy đủ trách nhiệm trong hoạt động của mình, tách bạch các hoạt động kinh doanh và hoạt động chính trị - xã hội.  Ngoài ra, cũng cần đảm bảo nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước.

Một lưu ý khác là cần tách bạch chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng sở hữu nhà nước. Nếu không làm tốt phần việc này thì thịt trường sẽ dấy lên câu chuyện như của ngành điện khi EVN vừa thực hiện chức năng sở hữu độc quyền ngành điện, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong việc ban hành biểu giá điện mới.

Nguồn lực nhiều – sức khỏe yếu

Tình trạng các tập đoàn, ông chủ lớn thống lĩnh chi phối thị trường như điện, xăng dầu làm cho hệ thống các doanh nghiệp tư nhân dù rất năng động, nhạy bén những khó lòng chen chân, cạnh tranh. Bởi đơn giản muốn làm được việc đó, phải qua một “rừng” thủ tục, giấy phép, cơ chế kinh doanh có điều kiện phong tỏa.

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, vấn đề cấp thiết hiện này của câu chuyện cải cách DNNN là xem lại vai trò chức năng của nó, chứ không thể tình trạng phát triển độc quyền như hiện nay. Biện pháp được khuyến nghị có thể chúng ta nên thành lập hệ thống các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời áp đặt kỷ luật ngân sách cứng và kỷ luật thị trường cho khu vực này, lúc đó mới xóa được các đặc quyền đặc lợi. Cổ phần hóa cũng phải thực chất, không được nửa vời, nếu không vẫn sẽ chỉ là bình mới rượu cũ.

TS. Lê Xuân Bá, Nguyên Viện trưởng CIEM cho rằng, chúng ta cũng cần phải giảm quy mô của hệ thống DNNN để dễ quản lý. Cụ thể, có thể giảm quy mô tài sản DNNN xuống còn 20% để quản trị hiệu quả cho từng ngành từng lĩnh vực. Chứ nếu cứ giữ hiện trạng nêu trên thì dù sau hàng chục năm nữa tình trạng vẫn vậy khó cải thiện được.

Còn nói như quan điểm của TS. Trần Đình Thiên, muốn cải cách DNNN tốt thì phải tạo ra được lực lượng tư nhân tốt. Tất nhiên, cải cách DNNN giúp tạo ra lực lượng tư nhân tốt, nhưng muốn cải cách tốt, thì cũng phải có lực lượng tư nhân đủ mạnh để thay thế. Nếu không, sẽ có thời điểm chúng ta rơi vào khoảng không, hụt hẫng vì không có người gối đầu, tiếp nối./.

Anh Phương