Phát huy vai trò kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế xanh, tuần hoàn

11:34:09 | 3/12/2025

Ngay khi vừa ban hành, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã nhận được sự quan tâm lớn từ cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội, ngân hàng và các đối tác phát triển. Ban Biên soạn xin trích đăng nội dung chia sẻ của bà Ramla Khalidi – Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam và ông Bùi Anh Tuấn- Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) xung quanh vấn đề này.


Trao chứng nhận cho các doanh nghiệp bền vững thuộc Top 10 lĩnh vực thương mại - dịch vụ, năm 2024

Nghị quyết đã đặt nền móng cho sự chuyển biến toàn diện về chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, từ việc “thừa nhận” sang “bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy”, từ “bổ trợ” sang “dẫn dắt phát triển”, đồng thời đặt ra những mục tiêu rất thách thức cho kinh tế tư nhân phát triển bền vững, cùng với đó là những quan điểm đột phá, những nhiệm vụ, giải pháp mạnh mẽ để thúc đẩy khu vực tư nhân Việt Nam phát triển.

Ngay sau đó, Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, thể hiện quyết tâm chính trị nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường vào giữa thế kỷ XXI.

UNDP hoàn toàn ủng hộ định hướng chiến lược này, đặc biệt là việc công nhận vai trò then chốt của khu vực tư nhân trong thúc đẩy sự bền vững, thông qua việc trao quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân phát triển.

Tại Việt Nam, nơi mà doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp, một “khoảng trống” lớn vẫn tồn tại về năng lực cạnh tranh, khả năng tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực đất đai, tài chính, nhân lực chất lượng cao,… và các dịch vụ hỗ trợ chất lượng để phát triển xanh và bền vững.


Doanh nghiệp tham gia trồng rừng ngập mặn 

Hiện nay, chính sách hỗ trợ vẫn thường được thiết kế mang tính chất chung chung, “cào bằng” giữa các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, với cơ chế hỗ trợ tương tự. Theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có dưới 200 lao động và doanh thu dưới 300 tỷ đồng mỗi năm hoặc có dưới 200 lao động và tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng. Điều đó có nghĩa là một doanh nghiệp 5 người ở vùng nông thôn với doanh thu chưa đến 1 tỷ đồng/năm cũng được thụ hưởng các chính sách hỗ trợ tương tự với nhóm một công ty có 200 lao động và doanh thu 300 tỷ đồng.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ở các quốc gia thu nhập thấp, nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm đa số trong hệ sinh thái. Ngược lại, ở các quốc gia thu nhập cao, tỷ lệ này chuyển dần sang doanh nghiệp vừa. Để Việt Nam tiến tới nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao, và sau đó là quốc gia thu nhập cao, các chính sách can thiệp có trọng tâm, đúng nhóm đối tượng là yếu tố sống còn để thúc đẩy sự phát triển quy mô doanh nghiệp và chuyển đổi kinh tế toàn diện, đặc biệt là chuyển đổi xanh, tuần hoàn và phát triển bền vững.

Một trong những điểm nghẽn lớn được cộng đồng doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam chỉ ra là khả năng tiếp cận tài chính còn hạn chế, đặc biệt với SMEs, doanh nghiệp khởi nghiệp và các dự án “xanh”. Thực tế này không chỉ do điều kiện, quy trình cho vay và đầu tư, mà còn do năng lực hấp thụ vốn của doanh nghiệp.

Nghị quyết số 68-NQ/TW giải quyết trực diện thách thức này thông qua các giải pháp như: tăng cường cơ chế bảo lãnh tín dụng, mở rộng và củng cố chức năng, nhiệm vụ của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF). Đáng chú ý, các giải pháp cũng nhấn mạnh việc cho vay không chỉ dựa vào tài sản thế chấp, mà còn xét đến mô hình sản xuất, kế hoạch kinh doanh theo thị trường, dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, tài sản hiện tại và tương lai.

Thời gian tới đây, Quỹ sẽ được mở rộng chức năng hoạt động khi triển khai cho vay khởi nghiệp, tài trợ hoặc đồng tài trợ vốn ban đầu cho các dự án khởi nghiệp hoặc cho vay từ nguồn ngân sách nhà nước kết hợp với các nguồn vốn quốc tế/tư nhân, hay thử nghiệm cơ chế quỹ đầu tư gián tiếp (fund-of-funds) khi SMEDF đầu tư vào các quỹ tư nhân để mở rộng kênh tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Một kinh nghiệm tốt từ quốc tế là việc khuyến khích các mô hình kết hợp nguồn lực công – tư  (bao gồm nguồn lực quốc tế) để giảm thiểu rủi ro đầu tư, tăng cường đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân có các sản phẩm, dịch vụ tạo tác động tích cực cho môi trường và xã hội. Đây là cách tiếp cận và phương pháp phát triển các sản phẩm tài chính hỗn hợp (blended finance). Trên thế giới, phương pháp này đã chứng minh hiệu quả trong việc huy động đầu tư vào kinh tế tư nhân. Một số quốc gia ASEAN như Singapore với sáng kiến Financing Asia’s Transition Partnership (FAST-P), Indonesia với Quỹ SDG One đã triển khai thành công, hoàn toàn có thể tham khảo để áp dụng tại Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam có thể mở rộng đối tượng vay, khuyến khích sự phát triển của cộng đồng nhà đầu tư nội địa, và thúc đẩy trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) từ các công ty lớn hướng tới hỗ trợ SMEs.

Nghị quyết 68 đặt doanh nghiệp tư nhân vào vị trí trung tâm của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, tuần hoàn và bền vững, phù hợp với định hướng phát triển và cam kết quốc tế của Việt Nam. UNDP cam kết tiếp tục đồng hành với Việt Nam, tăng cường năng lực doanh nghiệp, thúc đẩy mô hình kinh doanh sáng tạo, mở rộng tiếp cận các nguồn tài chính đổi mới, nhằm hướng đến tương lai thịnh vượng, để “không ai bị bỏ lại phía sau”.

Nguồn: Vietnam Business Forum