13:02:41 | 3/12/2025
Những năm gần đây, cùng với quá trình đô thị hóa nhanh và mở rộng hoạt động sản xuất, vấn đề phát sinh và quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở Việt Nam đã trở thành một trong những thách thức lớn đối với các địa phương. Tốc độ gia tăng dân số, nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh khiến khối lượng chất thải rắn sinh hoạt không ngừng gia tăng, gây áp lực lên hệ thống thu gom, xử lý và môi trường đô thị.
Chất thải nhựa chiếm khoảng 12% trong chất thải rắn sinh hoạt, theo đó tổng khối lượng chất thải nhựa phát sinh tại Việt Nam khoảng 8.021 tấn mỗi ngày, tương đương 2,93 triệu tấn mỗi năm (WWF, 2023). Chất thải phát sinh từ hộ gia đình là nguồn phát sinh chủ yếu (55 - 80%), phản ánh rõ nét tác động của mô hình tiêu dùng hiện đại và thói quen sinh hoạt dân cư.

Mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt ứng dụng công nghệ xanh và IoT trong đô thị, giúp tối ưu phân loại - thu gom - tái chế theo hướng kinh tế tuần hoàn
Năm 2024, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt 97,26%. Tại một số đô thị lớn như TP.Hồ Chí Minh, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 14.000 tấn/ngày. Chôn lấp vẫn là phương pháp xử lý chất thải phổ biến nhất, chiếm tới 70% tổng lượng chất thải thải thu gom, trong khi phần lớn các bãi chôn lấp không đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh. Mặc dù đã có một số nhà máy điện rác được xây dựng ở các thành phố lớn, bên cạnh đó, khoảng 300 lò đốt chất thải trên cả nước chủ yếu là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, không bảo đảm kiểm soát phát thải. Hệ thống thu gom và xử lý chất thải vẫn tập trung ở khâu “cuối cùng” thay vì chú trọng các biện pháp “đầu nguồn” như giảm phát sinh, phân loại và tái chế. Điều này không chỉ làm tăng chi phí vận hành mà còn gây thất thoát tài nguyên và phát thải lớn ra môi trường. Trong bối cảnh đó, mô hình kinh tế tuần hoàn, với triết lý “biến chất thải thành tài nguyên”, đang trở thành hướng đi tất yếu nhằm giảm thiểu tác động môi trường và tiến tới phát triển bền vững.
Kết quả nghiên cứu tại thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên cũ), nay là phường Tuy Hoà, tỉnh Đăk Lăk - năm 2023 của Đại học Phenikaa cho thấy bức tranh điển hình về quản lý chất thải tại các đô thị quy mô trung bình. Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trung bình tại hộ gia đình (không tính ở các khu vực công cộng) là 0,34 kg/người/ngày, trong đó chất thải hữu cơ chiếm 74%, nhựa chiếm 12%, còn lại là giấy, kim loại, thủy tinh và vải vụn. Địa phương hiện chưa thực hiện phân loại chất thải tại nguồn; toàn bộ lượng chất thải được thu gom và đưa đến bãi chôn lấp Thọ Vức. Tại đây, chất thải hữu cơ chiếm hơn một nửa tổng khối lượng và là nguồn phát thải khí nhà kính chủ yếu, với khoảng 83% lượng khí phát sinh đến từ thành phần này. Ngoài ra, lượng nhựa thất thoát ra môi trường nước tính riêng cho Tuy Hòa ước khoảng từ 0,8 đến 2,7 kg/người/năm, và trên phạm vi toàn tỉnh Phú Yên (cũ) là 9,4 kg/người/năm, trong đó gần 90% lượng nhựa thất thoát ra môi trường nước là do không được thu gom chính thức. Những con số này phản ánh thực trạng chung của nhiều đô thị Việt Nam: nguồn tài nguyên thứ cấp có giá trị vẫn bị bỏ phí, trong khi ô nhiễm nhựa ngày càng trở thành vấn đề nghiêm trọng.

Hệ thống quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở Việt Nam hiện có sự tham gia của nhiều bên liên quan với vai trò và mức độ kết nối khác nhau. Chính quyền đô thị đóng vai trò trung tâm trong hoạch định chính sách, đầu tư hạ tầng và tổ chức thu gom – xử lý. Doanh nghiệp công ích chịu trách nhiệm vận hành hệ thống thu gom, song nguồn lực còn hạn chế. Bên cạnh đó, khu vực phi chính thức như những người đồng nát, vựa thu mua ve chai,… giữ vai trò quan trọng trong thu hồi vật liệu tái chế, tuy nhiên chưa được công nhận chính thức trong cơ chế quản lý nhà nước. Các doanh nghiệp sản xuất và phân phối sản phẩm có bao bì nhựa cần thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), tham gia vào hệ thống thu hồi và tái chế. Cộng đồng dân cư là mắt xích khởi đầu và quan trọng của chuỗi tuần hoàn, quyết định tỷ lệ phân loại và giảm phát sinh chất thải. Ngoài ra, các tổ chức xã hội, cơ quan truyền thông và trường học đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nâng cao nhận thức, lan tỏa hành vi tiêu dùng xanh và khuyến khích mô hình cộng đồng bền vững. Sự liên kết giữa các nhóm này hiện còn đang rời rạc, thiếu cơ chế phối hợp liên ngành và liên cấp, dẫn đến hiệu quả thu gom và tái chế thấp.
Phân loại chất thải tại nguồn được xem là nền tảng của kinh tế tuần hoàn, song tại Việt Nam hành vi này vẫn chưa phổ biến. Nghiên cứu cho thấy có 03 yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi phân loại chất thải tại nguồn: nhận thức môi trường, sự thuận tiện của hạ tầng thu gom và niềm tin vào hệ thống xử lý. Người dân có kiến thức và ý thức về môi trường sẽ có xu hướng phân loại cao hơn, nhưng nếu việc phân loại gây bất tiện hoặc thiếu hệ thống thu gom phù hợp, hành vi này khó có thể duy trì. Một yếu tố đáng chú ý khác là tâm lý “rác phân loại rồi cũng bị trộn lại”, khiến người dân mất niềm tin và không tiếp tục thực hiện. Bên cạnh đó, yếu tố xã hội như sự khuyến khích từ cộng đồng, áp lực nhóm, hay phong trào “khu dân cư xanh” cũng có tác động tích cực, tạo ra động lực lan tỏa trong cộng đồng đô thị.
Từ kết quả nghiên cứu và thực tiễn triển khai, có thể nhận diện 04 nhóm giải pháp chính nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị. Thứ nhất là giải pháp về chính sách và pháp lý. Cần thực hiện nghiêm quy định bắt buộc phân loại chất thải tại nguồn theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, ban hành hướng dẫn cụ thể cho từng loại chất thải, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát và chế tài phù hợp. Chính quyền địa phương phải đóng vai trò kiến tạo, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các mô hình phân loại tại hộ gia đình, doanh nghiệp và cộng đồng.
Thứ hai là nhóm giải pháp về hạ tầng và công nghệ. Các đô thị cần đầu tư hệ thống thu gom đồng bộ, tách riêng dòng chất thải hữu cơ, chất thải có khả năng tái chế và chất thải còn lại; phát triển mô hình ủ compost tại hộ gia đình hoặc cụm dân cư để tận dụng chất thải hữu cơ tại chỗ, đồng thời giảm khối lượng chất thải cần xử lý ở bãi chôn lấp. Cần khuyến khích các cơ sở tái chế áp dụng công nghệ sạch, tận dụng năng lượng từ chất thải và xây dựng chuỗi liên kết vật liệu tuần hoàn tại địa phương.
Thứ ba là nhóm giải pháp tài chính và cơ chế khuyến khích. Việc áp dụng phí trách nhiệm môi trường đối với bao bì nhựa, phí thải bỏ sản phẩm dùng một lần, cùng với chính sách ưu đãi thuế và tín dụng xanh cho doanh nghiệp tái chế, sẽ tạo động lực kinh tế cho chuỗi tuần hoàn. Mô hình hợp tác công – tư (PPP) cần được đẩy mạnh để huy động nguồn lực xã hội hóa trong lĩnh vực thu gom, tái chế và xử lý chất thải. Cuối cùng là nhóm giải pháp về truyền thông và giáo dục. Cần triển khai các chương trình giáo dục môi trường ở trường học, cơ quan và khu dân cư; đẩy mạnh truyền thông dựa trên bằng chứng hành vi để thay đổi nhận thức cộng đồng; khuyến khích các phong trào thi đua, mô hình “tổ dân cư không rác thải” nhằm xây dựng văn hóa tiêu dùng và xử lý chất thải có trách nhiệm.
Kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn đô thị không chỉ là hướng tiếp cận kỹ thuật mà còn là chiến lược phát triển. Mô hình này giúp giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm tài nguyên, tăng hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khoẻ cho cư dân đô thị. Để mô hình này đi vào thực tiễn, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Cộng đồng, trong đó người dân là trung tâm, chính quyền đóng vai trò kiến tạo và doanh nghiệp là lực lượng đổi mới sáng tạo. Khi chất thải được xem là tài nguyên, chuỗi quản lý chất thải không còn kết thúc ở khâu xử lý, mà được mở rộng thành vòng tuần hoàn vật liệu – nơi mọi giá trị đều được tái tạo. Đây chính là con đường tất yếu để phát triển các đô thị và cộng đồng bền vững ở Việt Nam.
TS.Nguyễn Thị Hạnh Tiên
Khoa Công nghệ Sinh học, Hóa học và Kỹ thuật Môi trường – Trường Kỹ thuật Phenikaa, Đại học Phenikaa
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI