Cầu trong nước, các ngành dịch vụ, chế tạo và chế biến đạt kết quả tốt tạo động lực tăng trưởng GDP, dự kiến đạt 6,7% trong năm 2017. Đây là nhận định của Ngân hàng thế giới trong báo cáo “Điểm lại” - một ấn phẩm bán thường niên về tình hình kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới vừa được công bố.
Sức cầu trong nước mạnh hơn, các ngành chế tạo và chế biến định hướng xuất khẩu đạt kết quả tốt, ngành nông nghiệp đang từng bước phục hồi, là các yếu tố tạo động lực cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,4% trong chín tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, theo báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới. Ngành chế tạo, và dịch vụ lần lượt đạt tăng trưởng 7,3% và 12,8% so với cùng kỳ.
Nhìn về trung hạn, tăng trưởng kinh tế VN được dự báo sẽ ổn định ở mức khoảng 6,5%, lạm phát dự kiến vẫn ở mức thấp.
"Đà tăng trưởng ở các nền kinh tế lớn được đẩy mạnh và thương mại toàn cầu đang hồi phục trong năm 2017." theo lời của ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. "Nhờ thu nhập tăng lên và tỷ lệ nghèo giảm xuống, nền kinh tế Việt Nam có thêm một năm khởi sắc với tăng trưởng cao và kinh tế vĩ mô nhìn chung ổn định."
Lạm phát thấp và mức lương thực tế tăng giúp duy trì sức cầu trong nước và tiêu dùng tư nhân ở mức cao. Đồng thời, kinh tế toàn cầu khởi sắc cũng trợ lực cho ngành nông nghiệp, các ngành chế tạo định hướng xuất khẩu của Việt Nam. Số lượng việc làm tiếp tục tăng với 1,6 triệu việc làm mới được tạo ra trong ngành công nghiệp chế tạo trong ba năm qua và 700.000 việc làm mới được bổ sung ở các ngành xây dựng, bán lẻ và dịch vụ, góp phần tăng tổng năng suất lao động. Nhu cầu lao động cao hơn góp phần khiến lương tăng nhanh, với mức lương tăng khoảng 15% từ năm 2014 đến năm 2016.
Tuy đã có tiến triển về giải quyết nợ xấu, nhưng những rủi ro vẫn còn, chẳng hạn như tỷ lệ an toàn vốn ở một số ngân hàng còn chưa được đảm bảo, nhất là trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng cao.
Báo cáo ghi nhận tình hình tài khóa đang được thắt chặt hơn, dẫn đến bội chi ngân sách giảm xuống và tốc độ tăng nợ công được kiềm chế. Tuy nhiên, cắt giảm đầu tư công - xuống còn 16% tổng chi trong sáu tháng đầu năm 2017 so với 25% trong những năm qua - chưa hẳn đã được cho là bền vững về lâu dài khi Việt Nam vẫn cần đầu tư nhiều cho hạ tầng để hỗ trợ tăng trưởng trong tương lai.
WB cũng khuyến cáo, cải cách cơ cấu chậm cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi hiện nay, nhất là khi tốc độ tăng đầu tư đang yếu đi. Theo WB, tăng cường khả năng chống chịu về kinh tế vĩ mô và cải cách cơ cấu là hướng đi để nâng cao tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong trung hạn.
“Cải cách cơ cấu vẫn là ưu tiên trọng tâm trong điều kiện tăng trưởng năng suất chưa cao", theo ý kiến của ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt nam.
Chuyên đề đặc biệt của báo cáo “Điểm lại” kỳ này tập trung vào chủ đề cải thiện năng suất và công bằng trong chi tiêu công. Khi nợ công tiến sát hạn mức 65% GDP theo luật định, Chính phủ Việt Nam phải đối mặt với những hạn chế đòi hỏi phải thắt chặt ngân sách trong vài năm tới. Chuyên đề này nhằm tìm hiểu về những cải cách chi tiêu căn bản ở các dịch vụ công thiết yếu nhằm chỉ ra cơ hội kiềm chế tăng chi thông qua cải thiện năng suất chi tiêu.
Chi tiêu của Chính phủ vẫn ở mức cao so với GDP. Tỷ trọng chi thường xuyên tăng lên, do tăng chi tiêu cho an sinh xã hội, chi lương, tiền công và trợ cấp và cả chi trả lãi. Tỷ trọng chi đầu tư, mặc dù giảm so với tổng chi ngân sách Nhà nước, nhưng vẫn cao hơn so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Theo WB, Việt Nam đang hướng tới cơ chế giá dịch vụ theo thị trường, nhằm từng bước giảm trợ cấp cho các đơn vị sự nghiệp (Nghị định 16), nhưng nếu giá không được xác định phù hợp, bất bình đẳng về tiếp cận các dịch vụ cơ bản có thể tăng lên. Tác động dài hạn về huy động từ xã hội cần được nghiên cứu thận trọng, và cần lưu ý rằng có thể áp dụng các mô hình khác nhau cho các ngành khác nhau hoặc các cấp độ dịch vụ khác nhau trong cùng ngành. Điều quan trọng là phải có những biện pháp giảm thiểu tác động nhằm đảm bảo cơ hội để người nghèo và cận nghèo được tiếp cận công bằng tới các dịch vụ chất lượng cao và đảm bảo xác định đối tượng đúng đắn.
Anh Mai