Năm 2010, nhãn hiệu “Con voi” của Xi măng Bỉm Sơntròn 30 tuổi. 30 năm, khoảng thời gian đã chứng kiếnsự phát triển không ngừng của một thương hiệu.
Nói về sản xuất xi măng, người ta có thể kể tên một số "đại gia" như Xi măng Hải Phòng, Xi măng ChinhFon, Xi măng Công Thanh, Nghi Sơn, Bỉm Sơn... Mỗi thương hiệu, là một câu chuyện riêng. Với Xi măng Bỉm Sơn câu chuyện đó có những thăng trầm. Năm 1980, nhà máy xi măng Bỉm Sơn được xây dựng và Công ty cũng từng phải vật lộn để vượt lên những hạn chế của thời kỳ kinh tế bao cấp. Dây chuyền sản xuất liên tục phải thay mới, từ công nghệ ướt sang chạy song hành hai chế độ ướt và khô.
Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc thực hiện dự án đầu tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền số 2 của nhà máy chuyển từ công nghệ ướt sang công nghệ sản xuất khô hiện đại. Đến năm 2002, Bỉm Sơn một lần nữa mạnh tay đầu tư hiện đại hoá dây chuyền số 2 nâng công suất nhà máy từ 1,2 triệu tấn lên 1,8 triệu tấn/ năm. Cái "liều" này đã khiến không ít người nghi ngờ, nhưng đầu năm 2003, khi dây chuyền 2 đi vào chạy thử đã cho lãi ròng 10 tỷ.
Thành công này là động lực để Xi măng Bỉm Sơn làm chủ công nghệ. Công ty đã dành hàng nghìn tỷ đồng để đầu tư, cải tạo hệ thống thiết bị lò nung, xây dựng dây chuyền mới công suất 2 triệu tấn xi măng/năm, 5 nghìn tấn clinke/ngày đêm... Cùng với đó là việc phát huy tốt năng suất và hệ số sử dụng thời gian thiết bị, đảm bảo ổn định chất lượng xi măng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng ISO. Công tác thị trường, tiêu thụ sản phẩm được Công ty ưu tiên. Đến nay, Xi măng Bỉm Sơn đã vững thế đứng tại địa bàn miền Trung, Tây Nguyên đồng thời vươn sang thị trường Lào và Campuchia.
Đặc biệt, phong trào nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật của cán bộ công nhân viên trong Công ty đã đem lại những hiệu quả tích cực. Phong trào tập trung vào các đề tài giảm chi phí sản xuất, giải pháp về công nghệ, thị trường tiêu thụ... Trong đó việc đưa than cám 3C thay cho than cám 3B ở cả 2 lò nung đã giải quyết được khó khăn trong khâu cung ứng than cho lò nung. Các giải pháp hạn chế tối đa việc sửa chữa, đảm bảo thời gian huy động công suất của các thiết bị lò nung, máy nghiền... chạy dài ngày, đã được đưa vào ứng dụng nhằm đảm bảo năng suất, chất lượng sản phẩm.
Nhờ giám sát chặt chẽ quy trình công nghệ, vận hành thiết bị nên chất lượng clinker và xi măng sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn, tỷ lệ phụ gia bình quân đạt 21,5%. Công ty cũng tập trung đầu tư dự án dây chuyền nghiền đá xây dựng, từng bước triển khai phù hợp với chủ trương đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Năm 2008, sản lượng của Công ty đạt 1.730 ngàn tấn clinker, tiêu thụ trên 2,63 triệu tấn sản phẩm, lợi nhuận bằng 102,35% so với kế hoạch. Đây là năm bội thu của doanh nghiệp và cũng chính năm này, Bỉm Sơn đã góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá xi măng trên thị trường.
Với việc tiếp tục chiến lược mở rộng thị trường, Xi măng Bỉm Sơn đang hướng tới mục tiêu trong năm 2009, tiêu thụ 3,2 triệu tấn sản phẩm /năm, sản xuất 2,2 triệu tấn clinker; ổn định tăng năng suất các thiết bị, đặc biệt là lò nung số 2, duy trì năng suất bình quân 3.700-3.800 tấn/ngày và duy trì hệ thống quản lí chất lượng ISO 9007-1:2000.
Với phương châm "sản xuất tối đa, tiêu thụ tối đa" cùng với sự đầu tư chiều sâu dây chuyền công nghệ, sản phẩm Xi măng Bỉm Sơn đã, đang và sẽ luôn đồng hành cùng với các công trình trọng điểm của đất nước.