CẦN THƠ

Công nghệ sinh học: Kỷ nguyên mới của nền nông nghiệp Sóc Trăng

10:10:37 | 6/4/2010

Từ hơn hai thập niên trước, khi cụm từ “công nghệ sinh học” vẫn còn xa lạ với ngành sản xuất, ngành nông nghiệp Sóc Trăng đã có những bước đi đầu tiên trong việc ứng dụng công nghệ sinh học cứ ngày một dày thêm. Và hôm nay, đã chính thức trở thành hạt nhân cho sự phát triển của một nền công nghiệp an toàn và bền vững.

Dấu ấn đầu tiên cho việc ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp ở Sóc Trăng được mang tên “Humat thiên nhiên”. Theo Kỹ sư Hồ Quang Cua - Phó giám đốc sở NN&PTNT Sóc Trăng, khoảng giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, các chế phẩm có nguồn gốc từ các Humat thiên nhiên đã được cung cấp cho nhà nông trong tỉnh để ứng dụng vào việc cải tạo phèn và ức chế một số loại virus gây hại cho cây trồng. Trong suốt thời gian dài, chế phẩm hữu cơ sinh học này đã giúp nhà nông giải quyết vấn đề nan giải trong sản xuất và xử lý phèn trong khi chờ đợi các công trình thủy lợi tháo chua, rửa phèn được khởi công. Khi cái khó về phèn đã được xử lý bước đầu, nhà nông lại phải đương đầu với khó khăn do dịch hại gây ra. Vào thời điểm 1995 - 1996, dịch sâu xanh da láng, sâu tơ và tuyến trùng đã liên tục gây hại trên rau màu do đặc tính kháng thuốc hóa học. Nhà nông đã ví von, tình trạng sâu kháng thuốc hóa học bằng hình ảnh con sâu quay lại “cười” với nhà nông sau khi đã phun thuốc. Tuy nhiên các lọai sâu hại này đã không thể “cười” được lâu khi chế phẩm sinh học MVP (sử dụng vi khuẩn BT) và chế phẩm Vicin-S (thành phần chính là virus có thể vùi hình khối đa diện nhân) được ngành nông nghiệp đưa vào ứng dụng. Không chỉ diệt được sâu tại thời điểm phun xịt, các chế phẩm này còn có hiệu lực qua các thế hệ sau, nên cácloại sâu này gần như đã được loại trừ. Còn đối với bệnh do tuyến trùng trên cạn gây ra cũng hanh chóng được khống chế bằng chế phẩm Sincocin. Cho đến nay, chế phẩm này vẫn rất hiệu quả để diệt tuyến trùng cho cây trồng cạn.

Tuy nhiên, ấn tượng nhất trong việc ứng dụng công nghệ sinh học chỉ thật sự bắt đầu từ năm 2003 trở lại đây, với 2 chế phẩm đầu tiên là Ometar và Biovip, nguồn kinh phí được phê diệt chỉ vỏn vẹn 300 triệu đồng, nhưng hiệu quả mang lại rất cao về kinh phí lẫn môi trường và sức khỏe cộng đồng. Thành công này đã giúp ngành nông nghiệp tỉnh mạnh dạn đề xuất UBND tỉnh phê duyệt kinh phí hơn 1 tỷ đồng trong 2 năm 2006 - 2007 để áp dụng vào chế phẩm sinh học Bemetent, Amino15SL, Ometar, Biovip, nấm trắng) vào phòng chống đại dịch rầy nâu. Vào vụ Đông – Xuân 2006 - 2007, tại huyện Ngã Năm, nông dân đã rất thích thú chứng kiến những con gầy nâu bị chế phẩm Amino 15SL biến thành những chú ong ruồi di chuyển chậm chạp rồi chết dần sau đó. Vào thời điểm này, mật số rầy đã lên rất cao, nhưng các thửa ruộng sử dụng chế phẩm Amino 15SL vẫn đạt nâng suất từ 5,1 đến gần 6 tấn/ha trong khi các ruộng phun thuốc hóa học diệt rầy chỉ đạt năng suất gần 4,8 tấn/ha. Không chỉ có ở Ngã Năm, 2.000lít Amino 15SL đã đựơc bố trí phun trên diệt rộng tại 4 huyện Kế Sách, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên cũng cho hiệu quả tích cực. Bà Majonh, một chuyên gia của FAO khi tham quan 50ha có sử dung chế phẩm sinh học tại xã Thế An Hội (huyện Kế Sách ) đã đánh giá rất cao về cách làm này và sau đó đã hỗ trợ cho huyện Kế Sách xây dựng mô hình.

Sử dụng các chế phẩm sinh học mang lại năng suất cao, an toàn cho sức khỏe và môi trường.

Tuy nhiên, điều thú vị nhất vẫn là hiệu quả lâu dài của chế phẩm sinh học được dùng phòng trừ rầy từ năm 2003 đến nay. Cũng theo ông Cua, sau một thời gian thực hiện, đến đầu mùa Hè - Thu 2009, nguồn nấm xanh và nấm trắng đã xuất hiện nhiều trong tự nhiên trên địa bàn tỉnh. Rầy nâu hiện vẫn còn, nhưng không tập trung thành ổ dịch lớn đến mức phải can thiệp dập dịch bằng thuốc hóa học, giúp tiết kiệm cho ngân sách hàng tỷ đồng so với các tỉnh trong khu vực. Hơn 7.000 nông dân được huấn luyện IPM nay có điều kiện áp dụng trở lại giúp thiên địch tái xuất hiện với mật độ khống chế từ đầu tháng.

Trong giai đoạn từ 1992 - 1999, nông nghiệm Sóc Trăng đã thực hiện một “cú nhảy” thần kì khi đưa sản lượng lúa toàn tỉnh tăng gấp đôi so với giai đoạn trước. Nhưng cái giá của cú nhảy lịch sử đó, ngành nông nghiệp của Sóc Trăng đã quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa cây trên cây – cây dưới nước… Và sự quan tâm đó đã được đền đáp bằng sự thành công của việc khôi phục lại mô hình tôm – lúa tại 6 xã vùng trong huyện Mỹ Xuyên, mở ra triển vọng cho nghề nuôi tôm bền vững và vùng nguyên liệu lúa an toàn. Những nông dân đã ứng dụng chế phẩm sinh học vào sản xuất lúa tại các huyện: Ngã Năm, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị… đều rất tâm đắc trước hiệu quả diệt rầy của các chế phẩm này. Tuy nhiên, điều họ còn băn khoăn là lúa sản xuất bằng quy trình sinh học lại chưa được thu mua theo đúng giá lúa sạch. Một số người dân cho biết, sử dụng các chế phẩm sinh học đúng là rất hiệu quả lại an toàn cho sức khỏe và môi trường. Tuy nhiên, người tiêu thụ vẫn chưa trả giá công bằng cho sản phẩm lúa sạch do họ làm ra. Băn khoăn của nhà nông đã được kỹ sư Hồ Quang Cua giải đáp, nhà nông chưa nên vội quan tâm đến chuyện giá cả, mà trước mắt chỉ cần tiết kiệm được chi phí, an toàn cho sức khỏe, bảo vệ môi trường thì việc ứng dụng chế phẩm sinh học về thực chất đã mang lại hiệu quả cho nhà nông rất lớn. Phải nhận thấy điều này để tiếp tục đưa chế phẩm sinh học vào sản xuất để từng bước hình thành nên vùng nguyên liệu sạch đủ lớn, tiến tới xây dựng thương hiệu. Đến lúc đó, chuyện mặc cả giá bán buôn sẽ không còn là vấn đề lớn. Một kỷ nguyên mới của nền nông nghiệp Sóc Trăng đang được hình thành gắn liền với một tên gọi: Công nghệ sinh học.

Thanh Tùng

Các tin khác