Là tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho doanh nghiệp, doanh nhân và các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, VCCI đã thể hiện mạnh mẽ tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp, góp phần khẳng định vị thế của DN, doanh nhân đồng thời khơi gợi niềm tin của giới kinh doanh vào sự nghiệp đổi mới, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Thể hiện mạnh mẽ tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp
Thời gian qua, VCCI đã có nhiều nỗ lực trong việc tập hợp ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, phản ánh với các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước nhằm hoàn thiện các chính sách về pháp luật; đề xuất các giải pháp xử lý vướng mắc liên quan đến doanh nghiệp. Đồng thời, tham gia vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh và quan hệ lao động.

Hội nghị thường niên Thủ tướng gặp doanh nghiệp được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 09/01/1998 với thông điệp xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa các cơ quan quản lý và doanh nghiệp. Đến năm 1999 thì có thêm một bước đột phá mới mở đường cho sự phát triển của doanh nghiệp và doanh nhân, đó là việc Chính phủ ban hành Luật doanh nghiệp. Cũng từ đó đến nay, nhiều hoạt động đối thoại giữa hiệp hội, doanh nghiệp với các cơ quan hữu quan đã được tổ chức và thu được kết quả rất khả quan.
Tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp Doanh nghiệp năm 2004, Thủ tướng Phan Văn Khải khi đó đã cam kết Chính phủ sẽ tạo một sân chơi chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Chế độ bảo hộ cũng sẽ bị bãi bỏ và sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp để có một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình sản xuất kinh doanh. Cam kết của Thủ tướng Phan Văn Khải đã được Chính phủ và các bộ, ban, ngành nghiêm túc thực hiện. Sau nhiều lần sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật liên quan, đến nay đã có khung pháp lý chung, sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Các chính sách bảo hộ cũng được thực hiện phù hợp với các cam kết quốc tế; thay vì bảo hộ thì Chính phủ đã cùng với doanh nghiệp chủ động các giải pháp phòng vệ thương mại để hỗ trợ sản xuất trong nước…
Hội nghị Thủ tướng gặp doanh nghiệp được xem như những “Hội nghị Diên Hồng” về kinh tế, “Hội nghị - Tất cả trong 1”, hội nghị của lòng yêu nước, sự đoàn kết, cộng đồng doanh nghiệp hiến kế góp phần xây dựng quốc gia hùng cường. Các hội nghị được tổ chức với mục đích lắng nghe ý kiến của “lực lượng tiên phong trên mặt trận kinh tế” để tháo gỡ rào cản, mở đường cho lực lượng này tiến lên. Các hội nghị đều thu hút sự tham gia của đông đảo đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương, địa phương; doanh nghiệp; các hiệp hội doanh nghiệp; các cơ quan và các tổ chức quốc tế.
Riêng năm 2020, diễn ra trong “trạng thái bình thường mới”, Hội nghị được tổ chức theo hình thức đặc biệt với quy mô tiếp cận lớn nhất từ trước tới nay, được truyền hình trực tuyến với 63 điểm cầu địa phương, 30 điểm cầu các bộ, ngành cũng như truyền hình trực tiếp trên Đài Truyền hình Việt Nam. Khoảng 800.000 doanh nghiệp trên toàn quốc, trên 5 triệu hộ kinh doanh và nhân dân cả nước có thể theo dõi.
Tại các hội nghị, VCCI đã thể hiện mạnh mẽ tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp đến Chính phủ góp phần từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Các nội dung kiến nghị chủ yếu tập trung vào các vấn đề về cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng đề xuất các biện pháp tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; phát huy hiệu quả Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Mới đây nhất, tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp 2020, VCCI đã gửi gần 100 kiến nghị, đề xuất giải pháp tới Chính phủ với mong muốn tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch bệnh, để hỗ trợ, vực dậy cộng đồng doanh nghiệp, VCCI đã “hiến kế” đề nghị Chính phủ chuẩn bị nhiều kịch bản. Trong đó có chính sách tài chính để doanh nghiệp duy trì lực lượng lao động và dưỡng lao động; Chính sách hỗ trợ trực tiếp để thúc đẩy giao thương nội địa, giữ dòng tiền.
Bên cạnh việc phản ánh kiến nghị tại các “Hội nghị Diên Hồng”, VCCI cũng thưởng ứng Cuộc vận động: “Doanh nghiệp, doanh nhân đóng góp ý kiến hoàn thiện thể chế, chính sách” do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì. VCCI đã đề nghị, các hiệp hội doanh nghiệp triển khai phong trào “Mỗi doanh nghiệp, doanh nhân 1 sáng kiến” để góp phần thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, hoàn thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Đồng thời các doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cấp mình và chia sẻ, lan tỏa những kinh nghiệm tốt, những điển hình hay để phát triển bền vững.
Theo TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, các kiến nghị của doanh nghiệp gửi đến VCCI đều đã được chuyển đến bộ ngành và phản ánh qua các hội nghị, được các cơ quan Chính phủ xem xét, giải quyết. Trong quá trình trao đổi, các bộ ngành cũng đã vỡ lẽ ra nhiều vấn đề và có sự chuyển biến cao hơn trong tư duy xây dựng pháp luật. Có thể nói, chưa bao giờ mà Chính phủ lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp như vậy và phát huy tiếng nói mạnh mẽ của doanh nghiệp như bây giờ.
Khơi dậy và thắp sáng niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp
Việc thể hiện mạnh mẽ tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp tại các hội nghị đã có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo sự chuyển biến tích cực đến các cơ quan Chính phủ theo tinh thần “Chính phủ kiến tạo”. Cụ thể, sau Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2016, tỷ lệ trả lời kiến nghị của doanh nghiệp do VCCI chuyển đến các bộ, ngành đã đạt 45%. Sau 4 năm (2016-2019), tỷ lệ trả lời kiến nghị doanh nghiệp của các bộ ngành đã đạt gần 80%. Việc đăng công khai nội dung kiến nghị và các cơ quan bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm trả lời đã có tác dụng tốt trong nâng cao tỷ lệ trả lời và giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cũng chính nhờ các hội nghị đối thoại, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp đã tạo nền tảng và cảm hứng cho phong trào cải cách ở mọi cấp, ngành, mọi địa phương như hiện nay. Cách thức tổ chức tiếp nhận, chuyển giao kiến nghị của doanh nghiệp thông qua Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Phiếu chuyển kiến nghị của Văn phòng Chính phủ và việc theo dõi sát sao giải quyết kiến nghị của VCCI với các bộ ngành, địa phương đã phát huy tác dụng rõ rệt, góp phần quan trọng tăng số lượng kiến nghị từ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và tạo “áp lực” hành chính để các bộ ngành, địa phương phải nghiêm túc nghiên cứu, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp.
Theo số liệu tổng hợp của VCCI, từ ngày 1/10/2016 đến 31/12/2019 đã có 3.287 kiến nghị của doanh nghiệp được tiếp nhận qua các kênh thông tin (Văn phòng Chính phủ, VCCI, hiệp hội doanh nghiệp) và chuyển đến các bộ, ngành, địa phương xem xét, giải quyết, trả lời doanh nghiệp, trong đó có 2.582 kiến nghị đã được trả lời, giải quyết (chiếm tỷ lệ 78,5%) và 705 kiến nghị chưa được trả lời, giải quyết (chiếm tỷ lệ 21,5%). Riêng trong quý I/2020, có 111 kiến nghị mới của các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp được tiếp nhận. Theo đó, mới có 24 kiến nghị được giải quyết và 87 kiến nghị chưa được xem xét phản hồi.... Đây là minh chứng cho sự chuyển biến tích cực của các cơ quan Chính phủ theo tinh thần “Chính phủ kiến tạo”.
Bên cạnh đó, thông qua những lần tiếp xúc và với tinh thần cầu thị, Chính phủ đã lắng nghe những vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn của doanh nghiệp; đồng thời tiếp thu và chỉ đạo các cấp, ngành, địa phương kịp thời điều chỉnh, xử lý bất cập trước nhiều rào cản xuất phát từ chính sách gây khó cho người dân và doanh nghiệp. Song song đó, Chính phủ nhanh chóng ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết giúp thúc đẩy kinh tế.
Có thể điểm qua như Nghị quyết 19 và Nghị quyết 02 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tới năm 2030 hay Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 về “Tiếp tục triển khai Nghị quyết 35/NQ-CP theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp; Nghị quyết 110/NQ-CP ngày 25/8/2018 về “một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư xây dựng… Mới đây nhất là Nghị quyết số 84/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh dịch Covid-19…
Bên cạnh đó, tại các hội nghị chuyên đề, Thủ tướng Chính phủ cũng đã đưa ra nhiều kết luận trong các lĩnh vực mà doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như logistics, đầu tư, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại, đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tích tụ và tập trung đất đai, phát triển công nghiệp hỗ trợ…
Thực hiện chủ trương xây dựng Chính phủ kiến tạo - hành động - liêm chính; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng từng nhiều lần khẳng định, các hội nghị đối thoại giữa Thủ tướng Chính phủ và doanh nghiệp đã thể hiện nỗ lực tăng cường tương tác giữa Chính phủ với doanh nghiệp và người dân, giúp doanh nghiệp tháo gỡ các rào cản, khó khăn trong vướng mắc đầu tư, sản xuất, kinh doanh, cắt giảm chi phí, gia tăng hiệu quả hoạt động... Qua đó khơi dậy và thắp sáng niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.
|
Thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển là sứ mệnh, trọng trách của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp. Có nhiều chính sách ra đời, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát huy sức mạnh, nâng cao vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới. Trong đó, phát triển và áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh đang được Đảng và Chính phủ ưu tiên. Tuy nhiên, rất nhiều doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt Nam hiện nay đang rất chật vật để chạm tới được những chủ trương chính sách đó. Theo tôi, để các doanh nghiệp khoa học công nghệ phát triển bền vững, trước tiên nên ưu tiên mua sản phẩm chất lượng quốc tế cho các doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt Nam. Bởi có nhiều chính sách chuyển giao công nghệ, đề tài nghiên cứu ứng dụng,…nhưng thị trường chuyển giao công nghệ vẫn đóng băng. Các doanh nghiệp khoa học Việt có thể làm được các sản phẩm chất lượng cao, giá thành rẻ hơn nhập khẩu, mà không dám làm. Nếu được ưu tiên mua, khi sản phẩm khoa học công nghệ có số lượng bán đã vượt qua được điểm hoà vốn sẽ tạo đà phát triển bền vững Thứ hai, ưu tiên nghiên cứu hậu kiểm ứng dụng: Thực tế các đề tài được doanh nghiệp khoa học công nghệ và nhà nghiên cứu tự đầu tư cũng thất bại rất nhiều, tỷ lệ thành công rất thấp, dưới 5%, trong khi họ thành công thì không được hỗ trợ gì, khiến họ kiệt quệ về nguồn lực. Để công bằng cho các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp tự lực tự cường, vừa giảm áp lực quản lý, các nhà quản lý chỉ cần hậu kiểm kết quả nghiên cứu và chi hoàn kinh phí cho các đề tài nghiên cứu ứng dụng thành công tạo ra sản phẩm chất lượng quốc tế. Mức thưởng tương đương chi phí doanh nghiệp và nhà khoa học đã đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng. Nếu làm được như vậy, thì những chính sách ưu đãi của Đảng và Chính phủ dành cho các doanh nghiệp khoa học công nghệ phát triển mới thực sự đi vào thực tiễn và có ý nghĩa. Quan trọng hơn cả chính là khuyến khích các nhà khoa học và doanh nghiệp Việt Nam yên tâm cống hiến, sáng tạo và đủ tự lực tự cường bước ra thế giới bằng chính các sản phẩm trí tuệ Việt Nam!
Việt Nam đang có mức tăng trưởng cao ổn định ở mức 6-7% trong những năm gần đây. Với hơn 55 triệu người trong độ tuổi lao động, Việt Nam có tốc độ đô thị hóa nhanh, thu nhập ngày càng tăng, và đặc biệt là tầng lớp trung lưu mở rộng nhanh chóng. Tuy nhiên, tỷ lệ sở hữu ô tô tại Việt Nam tương đối thấp so với các nước trong khu vực, với 25 chiếc/1.000 dân trong khi con số này trong khu vực là 150 - 200 chiếc/1.000 dân. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự tăng trưởng, thậm chí bùng nổ của thị trường ô tô Việt Nam trong những năm tới.
Quan hệ thương mại phát triển mạnh với Nhật Bản và Singapore cùng với các hiệp định thương mại tự do khiến Việt Nam trở thành “bàn đạp” tuyệt vời cho các cam kết ở châu Á. Do sự đa dạng của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam - bao gồm tài nguyên khoáng sản, công nghiệp nhẹ và hàng nông nghiệp - ngoại thương là một thành phần ổn định của nền kinh tế. Nền văn hóa kinh doanh phát triển, chế độ đầu tư tự do và dân số trẻ và dám nghĩ dám làm của Việt Nam đã giúp Việt Nam phát triển như ngày nay: Một thị trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp Đức. Các hiệp định thương mại quốc tế, như Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam sẽ giúp duy trì mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp và hiệu quả giữa Đức, đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam ở châu Âu và Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi ổn định sang nền kinh tế thị trường thực sự - sự cởi mở với thương mại quốc tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây đã biến Việt Nam trở thành một điểm đến đầu tư rất thú vị. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những trụ cột của thành công kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài giúp giới thiệu công nghệ, bí quyết và kiến thức quản lý hiện đại vào Việt Nam. Các đối tác Việt Nam làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế để có thể cạnh tranh tốt hơn trên thị trường toàn cầu. Đặc biệt là các doanh nghiệp Đức không chỉ mang công nghệ và cách kinh doanh quốc tế. Họ đầu tư vào giáo dục và đào tạo nghề và coi trọng các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội.
Năm 2020 là một năm vô cùng đặc biệt vì xuất hiện dịch bệnh Covid-19, tác động mạnh mẽ và sâu rộng lên mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội trên toàn cầu. Với thị trường chứng khoán Việt Nam, nơi được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế, dịch bệnh gây ra nhiều khó khăn cho nhà đầu tư chứng khoán nhưng mặt khác, các chính sách của Nhà nước cũng giúp thị trường có nhiều cơ hội. Môi trường lãi suất thấp luôn là yếu tố thuận lợi then chốt thúc đẩy hoạt động đầu tư. Nhờ đó mà thời gian qua, thị trường đã thu hút được dòng vốn lớn từ nhà đầu tư công chúng, thể hiện qua tỷ trọng doanh số giao dịch tăng lên. Điều đáng mừng là trình độ của công chúng đầu tư ngày càng được nâng cao khi nhà đầu tư cá nhân coi trọng nhiều hơn các yếu tố cơ bản và dài hạn. Đây là một yếu tố quan trọng để thị trường phát triển về chiều sâu, khi sắp tới sẽ có thêm nhiều loại sản phẩm phái sinh phức tạp và có tính đòn bẩy cao. Về thể chế, các cơ quan chức năng đã và đang đi đúng hướng với việc tích cực cải tiến các quy định pháp luật (Luật Đầu tư, Luật chứng khoán sửa đổi, v.v. và các văn bản dưới luật) giúp thị trường Việt Nam tiệm cận hơn với các thị trường tiên tiến. Xu hướng thời gian tới tại Việt Nam sẽ quy định thông thoáng hơn như cho phép giao dịch T+0, bán khống…, giúp tăng thanh khoản của thị trường. Quá trình cổ phần hóa và niêm yết doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp gia tăng quy mô vốn hóa cũng như thay đổi cơ cấu cổ đông doanh nghiệp theo hướng tích cực hơn. Về dài hạn, thị trường chứng khoán luôn phản ánh sức khỏe của nền kinh tế và khó có thể phát triển tốt nếu kinh tế yếu kém, trì trệ, doanh nghiệp khó tăng trưởng dù là do nguyên nhân dịch bệnh hay nguyên nhân khác. Khi kinh tế thế giới suy giảm vì dịch bệnh ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, việc phục hồi và củng cố sức cầu trong nước là điều cần thiết. Do đó, bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động đầu tư công một cách hiệu quả, cần nhanh chóng triển khai các giải pháp duy trì và cải thiện thu nhập cho số đông người dân trong nước, nhất là những người thu nhập thấp và dễ tổn thương trong thời kỳ dịch bệnh. Trước mắt, các gói cứu trợ thời kỳ dịch bệnh cần được thực thi nhanh chóng, đúng đối tượng. Sau đó, cần có biện pháp bảo vệ và nâng cao chất lượng của người lao động, đây cũng là một trong những yếu tố hữu hiệu giúp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Gia tăng thu nhập của người dân là giải pháp vừa tăng trưởng kinh tế bền vững, vừa nuôi dưỡng tầng lớp nhà đầu tư cá nhân vào thị trường chứng khoán trong dài hạn. |
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI