Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” được ngành Nông nghiệp Cần Thơ hưởng ứng tích cực thông qua việc đăng ký triển khai 48.000ha. Tham gia “cuộc cách mạng một triệu ha” này, Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã đăng ký với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) lập các dự án liên kết thực hiện tại các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030 đạt 100.000ha, trong đó có 15.000ha tại TP.Cần Thơ. Phóng viên đã có cuộc trò chuyện với ông Phạm Thái Bình - Chủ tịch HĐQT Công ty xung quanh việc triển khai Đề án.
![]() |
Việc triển khai Đề án sẽ tạo sức bật nào cho ngành lúa, gạo và các doanh nghiệp trong ngành lúa, gạo hiện nay, thưa ông?
Ngành lúa, gạo Việt Nam, nhất là khu vực ĐBSCL có nhiều lợi thế do thiên nhiên ban tặng, nên xuất khẩu gạo của Việt Nam sớm chiếm lĩnh nhiều thị trường trên thế giới. Nhưng nhiều năm qua, sản xuất của nông dân thiếu gắn kết với doanh nghiệp nên ngành hàng lúa, gạo phát triển không bền vững. Nông dân tự trồng nhiều loại giống lúa khác nhau; doanh nghiệp thu mua chế biến các loại gạo đó “đấu lại” thành gạo hỗn hợp 5%, 10%, 15%, tấm,… rồi bán ra thị trường.
Năm 2012, Công ty Trung An lần đầu tiên ký hợp đồng xuất khẩu 2.000 tấn gạo chỉ “một loại giống” có giá cao hơn 70 USD/tấn từ nguồn lúa Công ty liên kết với nông dân sản xuất trong cánh đồng mẫu lớn. Từ đó, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đã hình thành được đối tượng khách hàng có nhu cầu gạo chất lượng cao chỉ một loại giống. Các doanh nghiệp bắt đầu mua gom, phân loại gạo riêng ra từng giống để bán giá cao hơn. Nhưng số lượng không đáp ứng nhu cầu vì gạo đồng nhất chỉ có được khi doanh nghiệp liên kết với nông dân sản xuất theo tiêu chí, quy trình canh tác mô hình cánh đồng mẫu lớn.
Song việc liên kết này không phải doanh nghiệp nào cũng làm được vì “liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ” giữa doanh nghiệp với nông dân trong trồng lúa cần có vốn. Từ năm 2012 - 2015, nhiều tỉnh thành, doanh nghiệp tham gia cánh đồng mẫu lớn nhưng về sau càng “teo dần”. Đến năm 2019 - 2020 chỉ còn một vài doanh nghiệp (trong đó có Trung An) vẫn kiên trì liên kết với nông dân dù đối mặt với rất nhiều khó khăn nhưng vẫn luôn hy vọng Nhà nước sớm có giải pháp tháo gỡ về nguồn vốn đầu tư cho các khâu trong chuỗi liên kết.
Chúng tôi hiểu rằng việc liên kết sản xuất canh tác là điều tiên quyết để ngành hàng lúa, gạo phát triển bền vững nên cố gắng duy trì. Trong chuỗi liên kết này doanh nghiệp chịu trách nhiệm mọi khâu như cung cấp vật tư đầu vụ (giống, phân, thuốc, dịch vụ nông nghiệp,…) ứng vốn cho nông dân (không tính lãi) thời gian 4 tháng; thanh toán tiền lúa khi thu hoạch; lắp máy sấy lúa (nông dân giao lúa tươi tại ruộng), lắp silo chứa lúa khô,… Do phải đầu tư lớn lại không tiếp cận được vốn vay nên đa số doanh nghiệp không liên kết mà chọn thu mua phần ngọn.
Đề án triển khai thể hiện sự quyết tâm to lớn của Chính phủ, Bộ NN&PTNT, các tỉnh, thành phố. Từ đó nếu ngành Ngân hàng vào cuộc sát sao sẽ tháo gỡ được nút thắt về nguồn vốn thì chắc chắn doanh nghiệp sẽ tích cực tham gia và chấm dứt được tình trạng “gạo Việt Nam luôn bị chính các doanh nghiệp Việt Nam hạ giá xuống thấp để tranh bán”.
Hơn thế, trong bối cảnh yêu cầu về chất lượng cuộc sống và hạt gạo ngày càng cao, việc áp dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn trở nên cấp thiết. Theo xu thế đó, các dòng sản phẩm gạo dán nhãn “carbon thấp”, sản xuất theo mô hình phát thải thấp sẽ có thị trường tiêu thụ ổn định với giá bán tăng hơn rất nhiều. Nhưng điều này chỉ thực hiện được khi có nhiều doanh nghiệp tham gia với vùng sản xuất rộng lớn. Ngành Nông nghiệp Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị triển khai Đề án Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030, ngày 15/10/2024 tại TP.Cần Thơ
Theo ông, đâu là sự khác biệt nổi bật giữa mô hình cánh đồng mẫu lớn với Đề án một triệu ha đang được triển khai?
Cánh đồng mẫu lớn là sự liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ giữa doanh nghiệp với nông dân trong sản xuất lúa, nhằm nâng cao giá trị và phát triển bền vững cả ngành hàng lúa, gạo! Khi thực hiện năm 2011 phát triển khá phổ biến nhưng do doanh nghiệp không vay được vốn để thanh toán chi phí cho các khâu trong chuỗi liên kết nên cánh đồng mẫu lớn bị thu hẹp.
Còn việc triển khai Đề án là bậc thang phát triển cao hơn của cánh đồng mẫu lớn với nhiều quy định, tiêu chí hoàn thiện sâu rộng hơn. Nói một cách định lượng thì cánh đồng mẫu lớn có nội dung 70% thì trong Đề án là 100%. Đề án làm sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn và giải quyết được những nút thắt mà cánh đồng mẫu lớn chưa giải quyết được. Bên cạnh đó, các nội dung trong Đề án còn đề cập nhiều đến các quy trình, quy định sản xuất liên quan đến môi trường, giảm phát thải nhà kính và tăng trưởng xanh theo cam kết của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26).
Trong các chủ thể liên kết hợp tác thì vai trò doanh nghiệp luôn rất quan trọng, đặc biệt còn quyết định tới tiến độ triển khai và hiệu quả của Đề án. Ông có thể cho biết rõ hơn về điều này?
Trong các mối liên kết sản xuất lúa gạo từ trước đến nay cũng như theo các nội dung tiêu chí trong Đề án đều khẳng định vai trò doanh nghiệp (gồm cả các hợp tác xã) là một chủ thể trung tâm xây dựng nên vùng nguyên liệu để nông dân tham gia Đề án.
Cụ thể, theo hướng dẫn của Bộ NN&PTNT (Quyết định số 2178/QĐ-BNN-KTHT ngày 04/7/2024), thì doanh nghiệp cần lập các dự án, phương án vùng lúa nguyên liệu,… trình UBND các tỉnh, thành phê duyệt làm cơ sở triển khai, khi dự án, phương án được phê duyệt, ngân hàng mới có cơ sở pháp lý để xem xét cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư thực hiện.
Để triển khai Đề án các doanh nghiệp, HTX phải vay được vốn để triển khai thực hiện liên kết. Tuy vậy, để sản xuất được loại gạo chất lượng, giá trị cao thì phải vận hành đồng bộ, nhịp nhàng mối liên kết này.
Giải quyết tốt được các nút thắt trong đầu tư đã nêu trong Dự án của doanh nghiệp, đặc biệt là giải quyết được yếu tố gốc rễ là nguồn vốn, nguồn lực thì doanh nghiệp mới vận hành trơn tru được. Có như vậy, doanh nghiệp với nông dân mới làm chủ được quy trình sản xuất, chủ động được việc sản xuất và bán hàng, nâng cao giá bán cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp, thu nhập của người nông dân và giá trị chung cho ngành lúa, gạo.

Cánh đồng mẫu lớn do Trung An triển khai
Hưởng ứng “cuộc cách mạng lớn” này, Trung An đã, đang vào cuộc ra sao?
Việc ban hành triển khai Đề án luôn được Trung An đặc biệt quan tâm, hưởng ứng mạnh mẽ, tích cực đưa ra nhiều ý kiến đóng góp và chủ động đề xuất thực hiện.
Cho đến nay, Trung An đã, đang hoàn thiện các hồ sơ, đăng ký lập dự án 100 nghìn ha. Cụ thể, tại Hội nghị triển khai Đề án ngày 05/01/2024, dưới sự chứng kiến của lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Kiên Giang đã trao Biên bản để Trung An thực hiện 50 nghìn ha tại vùng tứ giác Long Xuyên. Ngoài Kiên Giang, Trung An đã đăng ký thực hiện 15 nghìn ha tại thành phố Cần Thơ, 15 nghìn ha tại An Giang; 10 nghìn ha tại Đồng Tháp và tại mỗi tỉnh Sóc Trăng, Hậu Giang sẽ triển khai 5 nghìn ha,…
Riêng với 15 nghìn ha tại Cần Thơ, từ vùng nguyên liệu sẵn có quy mô 2 nghìn ha tại huyện Cờ Đỏ và Vĩnh Thạnh, Trung An xúc tiến mở rộng thêm 5.000 ha ở huyện Thới Lai,… nhằm đảm bảo diện tích và tiến độ đăng ký.
Như đã đề cập ở trên, nguồn vốn sẽ quyết định tiến độ và hiệu quả triển khai Đề án, ông có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?
Như đã nói trên, doanh nghiệp lập Dự án khả thi để ngân hàng làm cơ sở cho vay và khi có nguồn tiền sẽ triển khai các bước tiếp theo. Điều đáng nói ở đây, khi có đủ nguồn lực, doanh nghiệp sẽ thực hiện được các phương án tổng thể nhất, hiệu quả nhất: Chẳng hạn việc đầu tư cho 01 ha trồng lúa, kho bãi dự trữ để chủ động nguồn hàng cho các đơn hàng và đáp ứng nhu cầu thị trường; vấn đề xử lý trấu, rơm, cám,… sau thu hoạch, chế biến,… Phải tính toán tất cả, thực hiện đồng bộ mới đem lại giá trị, hiệu quả cao và bền vững, mà những giá trị này doanh nghiệp đã nhìn ra nhưng không triển khai được do thiếu nguồn lực về vốn.
Về tổng thể, theo tính toán tổng nguồn vốn để thực hiện Đề án kể cả dài hạn và ngắn hạn cần khoảng 3 - 4 tỷ USD. Con số này có vẻ lớn nhưng thực tế lại không đáng kể khi chúng ta triển khai Đề án hiệu quả, Việt Nam vẫn chỉ xuất khẩu 8 triệu tấn gạo/năm nhưng giá trị thu về sẽ lên đến 7 - 8 tỷ USD chứ không phải 4,6 tỷ USD như hiên nay. Chúng tôi chỉ đưa ra con số cơ bản như vậy để thấy được những lợi ích to lớn về kinh tế nếu Đề án có giải pháp để doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay.
Bài toán tổng thể là hoàn toàn rõ ràng. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và ngành Ngân hàng cũng nhìn nhận rõ vấn đề này. Con số cho vay thực hiện Đề án hoàn toàn nằm trong tầm tay nhưng điều đáng nói ở đây là làm thế nào để doanh nghiệp tiếp cận được. Để tháo gỡ khó khăn này, ngày 11/10/2024, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành 03 văn bản (số 8363, 9864 và 8365) quy định rõ về quy trình, thủ tục và những ưu đãi liên quan. Có nghĩa là về chủ trương, ngành Ngân hàng cũng rất sẵn sàng. Việc cần thiết hiện nay là các doanh nghiệp sớm triển khai, các địa phương sớm vào cuộc để vận hành. Cũng xin nói thêm là tới đây trong quá trình triển khai, các ngân hàng cũng cần thay đổi tư duy, thay vì cho vay khúc “ngọn”, như chỉ chú trọng cho vay các hợp đồng xuất khẩu thì nên ưu tiên vay theo chuỗi để Đề án phát huy hiệu quả.
Trân trọng cảm ơn ông!
Ngô Khuyến (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI