Dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật nhưng Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để nâng cao hiệu quả logistics, mà bằng chứng là việc thứ hạng của Việt Nam trong Chỉ số hoạt động Logistics đã giảm từ 48 năm 2014 xuống thứ 64 năm 2016.
Theo ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, hoạt động logistics và kết nối hiệu quả và tối ưu là yếu tố quan trọng bảo đảm năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Logistics hiệu quả càng đặc biệt quan trọng đối với một nền kinh tế đang phụ thuộc nhiều vào khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và xuất khẩu như Việt Nam. Điều này sẽ giúp Việt Nam tăng năng suất để đạt được các mục tiêu phát triển đầy tham vọng của mình.
Nhờ có chính sách mở cửa nhất quán và lấy tăng trưởng xuất khẩu làm đầu tàu, Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng. Công cuộc cải cách kinh tế tiến hành từ thập niên 1990 đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và giảm nghèo. Trong 20 năm qua, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) hơn bất kỳ nước nào khác trong khu vực, nhờ đó trở thành một trong những nền kinh tế hội nhập sâu rộng nhất trên thế giới, với tỷ trọng kim ngạch thương mại trên GDP đạt trên 170%. Tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa đạt bình quân 15% trong 5 năm qua, cao gần gấp 5 lần tăng trưởng thương mại toàn cầu. Nhờ đó, Việt Nam hiện đang nổi lên là một trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu và một trong những điểm đến hàng đầu trên thế giới đối với đầu tư FDI, thu hút khoảng 35 tỷ USD vốn đăng ký vào năm 2017.
Nhưng số lượng không phải lúc nào cũng đi cùng với chất lượng. Mặc dù tăng trưởng xuất khẩu đã tăng mạnh, Việt Nam vẫn chỉ thực hiện những công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Kết quả xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào khu vực FDI, hiện đang chiếm tới 70% tổng giá trị xuất khẩu, qua đó cho thấy mối liên kết yếu giữa các doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu. Thêm vào đó, chi phí xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn cao hơn mức bình quân của khối ASEAN. Tính theo tỉ trọng GDP, chi phí logistics của Việt Nam là 18%, cao gần gấp đôi so với các nền kinh tế phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu 14%.
“Việt Nam cần một giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu bên cạnh tự do hóa thương mại nhằm hiện thực hóa tầm nhìn trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình cao vào năm 2035, khi nền kinh tế và hoạt động xuất khẩu đã phát triển lên trình độ mới, bảo đảm duy trì tăng trưởng nhanh”, ông Ousmane Dione nói .
Theo ông Ousmane Dione, Chính phủ cũng như khối kinh tế tư nhân cần có lộ trình rõ ràng về cải cách nếu muốn nâng cao chất lượng dịch vụ logistics theo những đòi hỏi tăng lên của một nền kinh tế ngày càng hiện đại. Trong nhiều lĩnh vực sẽ cần có những nhóm giải pháp để bổ sung cho việc tăng cường đáng kể đầu tư vào hạ tầng cơ sở.
Theo đó, cần tăng cường kết nối. Khi khả năng kết nối trở nên có hiệu quả thì sẽ tăng cường được mối liên kết giữa sản xuất và thị trường thế giới. Từ đó sẽ giảm được chi phí thương mại và tăng sự ổn định cho các doanh nghiệp trong nước về thực hiện đơn hàng.
Mặc dù có những nỗ lực lớn trong đầu tư công vào hệ thống giao thông, hạ tầng có liên quan đến thương mại chưa bắt kịp được với mức độ với tăng trưởng xuất khẩu và sự gia tăng nhanh chóng về lưu lượng hàng hóa. Tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam đang bị hạn chế nghiêm trọng do sự yếu kém của hành lang kết nối giữa những trọng điểm tăng trưởng quan trọng với các cửa ngõ quốc tế lớn, chi phí vận tải cao, và chất lượng vận tải và logistics kém. Đầu tư vẫn chưa đồng bộ, tập trung chủ yếu vào đường bộ hơn là các loại hình vận tải đa phương thức khác. Quy hoạch tổng thể chưa phản ánh hết nhu cầu ngày càng lớn của các hoạt động kinh tế và thương mại quan trọng cũng như tối ưu hóa đầu tư vào vận tải đa phương thức và các trung tâm logistics.
Ông Ousmane Dione đánh giá, VN nên thay đổi việc phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư công, rõ ràng là vượt khả năng tài trợ, kém hiệu quả và do vậy không bền vững. Việc chuyển dịch sang tài trợ bởi khu vực tư nhân và thiết lập ưu tiên rõ ràng cho đầu tư thiết yếu là chìa khóa để có kết nối tốt hơn.
Mặt khác, tăng cường tạo thuận lợi thương mại có thể là một yếu tố quyết định. Các xu hướng toàn cầu cho thấy lợi ích có được từ tăng cường tạo thuận lợi thương mại có thể lớn hơn nhiều lợi ích từ giảm thuế quan, đặc biệt khi mà mức thuế quan hiện đã khá thấp ở phần lớn các lĩnh vực. Tăng cường tạo thuận lợi thương mại thông qua đơn giản hóa thủ tục hải quan và các quy định quản lý chuyên ngành có rất nhiều quy định phải tuân thủ, mà theo ước tính chiếm tới 76% thời gian cần thiết để nhập khẩu để đáp ứng các yêu cầu quản lý thủ tục ở trước và tại cửa khẩu. Tiến bộ gần đây trong cải cách hải quan là rất đáng khích lệ, nhưng việc cải cách và hiện đại hóa các cơ quan quản lý chuyên ngành vẫn chậm trễ hơn nhiều. Trong khung luật định hiện hành về tạo thuận lợi thương mại, gồm các quy trình cấp phép, thủ tục hành chính áp dụng trước và tại cửa khẩu, còn có rất nhiều quy định quản lý phức tạp. Ngoài ra, các văn bản hướng dẫn không phải lúc nào cũng có sự thống nhất, nhiều khi có sự chồng chéo, thiếu rõ ràng, liên quan đến nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác nhau. Vì vậy cần có sự đồng bộ, phối hợp tốt hơn, tập trung vào các giải pháp chính sách nhằm rà soát, hợp lý hóa biện pháp, quy trình, áp dụng tự động hóa, nhất là Cơ chế một cửa quốc gia, bãi bỏ các quy định về kiểm tra nhiều lần, thực hiện quản lý dựa trên đánh giá rủi ro trong các cơ quan kiểm tra chuyên ngành, cũng như tăng cường tính minh bạch…
Anh Mai