TÂY NINH

Chủ động nắm bắt cơ hội đầu tư

14:36:48 | 26/5/2010

Là một trong cá tỉnh đang có tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ như: TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai… Long An đã xác định những cách đi riêng để tạo môi trường đầu tư khác biệt và hấp dẫn các nhà đầu tư. Đó là khẳng định của ông Mai Văn Nhiều – Giám đốc Sở KH&ĐT Long An với Tạp chí Vietnam Business Forum.

Hạ tầng phải đi trước một bước

Vượt qua những rào cản suy thoái kinh tế của năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Long An vẫn đạt 14,5%, mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Đáng chú ý là lĩnh vực sản xuất công nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao 25,7% đạt, vượt mức kế hoạch đã đề ra (đạt 25,0-25,5%); kim ngạch xuất khẩu đạt 860 triệu USD, đạt 103% kế hoạch năm và tăng 30,2% so cùng kỳ năm trước.

Góp phần quan trọng vào thành tựu này chính là nhờ vào hiệu quả hoạt động thu hút đầu tư của tỉnh trong hơn 10 năm qua, đặc biệt là năm 2006, 2007. Giai đoạn 2001-2005, Long An thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hơn 400 triệu USD tăng 2,1 lần so với giai đoạn trước, đầu tư trong nước trên 3.200 tỷ đồng tăng hơn 2 lần so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, năm 2006 và đặc biệt năm 2007 mới là bước đột phát của Long An trong hoạt động thu hút đầu tư. Nếu năm 2006 đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 291 triệu USD (hơn 50% của cả giai đoạn 5 năm trước đó); đầu tư trong nước tăng 2.266 tỷ đồng (trên 2/3 mức tăng của cả giai đoạn 2001-2005), thì năm 2007 đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trên 750 doanh nghiệp (tăng trên 33% doanh nghiệp so với năm 2006) với tổng vốn đăng ký 12.000 tỷ đồng (tăng gấp 10 lần so 2006) và cấp mới trên 70 dự án với vốn đầu tư trên 1,2 tỷ USD (so với 2006: số dự án tăng 1,7 lần, vốn đăng ký tăng gấp 6 lần). Năm 2008 tuy có khó khăn nhưng đầu tư trực tiếp từ trong nước và ngoài nước duy trì mức cao, đặc biệt là thu hút đầu tư trong nước đạt trên 25.827 tỷ đồng (718 doanh nghiệp), tăng hơn hai lần năm 2007, có 68 dự án được cấp mới (so với năm 2007 là 70 dự án) với tổng vốn đăng ký là 528 triệu USD (vốn đăng ký đạt 65% so với năm 2007) và có 11 lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 40 triệu USD, tăng 233% so với năm 2007. Lũy kế đến cuối năm 2008 đã cấp chứng nhận đầu tư 267 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.500 triệu USD; trong đó có 117 dự án đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện 1.026 triệu USD.

Môi trường đầu tư được cải thiện theo hướng bền vững hơn. Theo đánh giá của VCCI, năng lực cạnh tranh của tỉnh tăng 15 bậc, từ hạng thứ 21/64 đã lên vị trí 6/63, thuộc nhóm địa phương có chỉ số năng lực cạnh tranh tốt. Công tác xúc tiến đầu tư được đổi mới và bước đầu phát huy hiệu quả. Trong năm, tỉnh đã tổ chức nhiều sự kiện xúc tiến đầu tư trong nước và ngoài nước (Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ngoài ra, tỉnh đã ký kết được một số biên bản ghi nhớ đầu tư với các đối tác, đặc biệt là với Tập đoàn Viễn thông Việt Nam về phát triển hạ tầng viễn thông trên địa bàn tỉnh; với các nhà đầu tư Hàn Quốc về các dự án cấp nước sạch, xử lý nước thải, với các nhà đầu tư Nhật Bản về lĩnh vực y tế, tư vấn qui hoạch tổng thể phát triển KT - XH của tỉnh...

Tính đến cuối tháng 5 năm 2009, số dự án đi vào hoạt động là 118/278 dự án (42,4%), giải ngân vốn được 1.147/2.665 triệu USD (43%). Hiện nay, toàn tỉnh có trên 6.000ha đất công nghiệp đã được giao cho các nhà đầu tư hạ tầng để thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh trực tiếp (đầu tư thứ cấp).

Cải thiện môi trường đầu tư

Theo ông Nhiều, khi Việt Nam gia nhập WTO bên cạnh những những thách thức đặt ra chúng ta cũng có những cơ hội cần phải tranh thủ để phát triển. Riêng đối với Long An, để tranh thủ cơ hội thu hút nhiều nhà đầu tư đến với địa phương, Long An đã đưa ra nhiều biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường xuất khẩu. Trong đó, tập trung cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đặc biệt là vào con người. Áp dụng rộng rãi cơ chế một cửa, một cửa liên thông về đăng ký kinh doanh, đầu tư, đất đai, xây dựng, tư pháp. Mục tiêu của tỉnh giảm thời gian cấp phép, cấp giấy chứng nhận trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, đầu tư, xây dựng, đất đai giảm từ 1/3 đến 1/5 so với qui định chung và giảm đến mức thấp nhất số lần đi lại của các nhà đầu tư, giảm tối đa các chi phí về thời gian và công sức khi thực hiện thủ tục hành chính; tạo môi trường thân thiện, tin cậy giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhân dân, doanh nghiệp. Hiện nay, tỉnh tổ chức hai đầu mối tiếp nhận đầu tư: Ban Quản lý các KCN là đầu mối tiếp nhận đầu tư và cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư vào các KCN; Sở KH&ĐT làm đầu mối liên thông trong tiếp nhận các dự án đầu tư ngoài các KCN và là cơ quan tham mưu UBND tỉnh quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn tỉnh, thẩm tra hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án nằm ngoài KCN.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề, duy trì vững chắc thành tựu về phổ cập giáo dục trung học cơ sở để chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cho nhu cầu tăng nhanh sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, có hai dự án đầu tư trường đại học đẳng cấp quốc tế và khu đại học ngoài công lập phục vụ di dời các cơ sở đại học từ thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nguồn lực to lớn của tỉnh trong thời gian tới, nhất là sẽ thu hút được đội ngũ trí thức về tỉnh giảng dạy, nghiên cứu, tăng cường năng lực đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp hoá. Trong đó, ưu tiên tăng cường năng lực về giao thông thuỷ, bộ; hệ thống cấp nước sạch cho các khu, cụm công nghiệp, khu dân cư, đô thị mới; khu xử lý rác thải tập trung; nhà ở công nhân. Tỉnh đã cơ bản hoàn thành các trục giao thông kết nối các khu công nghiệp với các trục đường chính hướng tâm TP.HCM. Thời gian tới tỉnh tập trung xây dựng các trục giao thông dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, kết nối các tuyến quốc lộ, cao tốc hướng về Cảng Long An và các cửa khẩu của tỉnh; đồng thời triển khai xây dựng các nhà máy cấp nước, khu xử lý chất thải rắn công suất lớn phục vụ cho các khu, cụm công nghiệp và dân cư đô thị.

Để tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp: đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu của tỉnh, địa phương đã thành lập tổ giải quyết khó khăn các doanh nghiệp trên địa bàn. Nhiệm vụ chính là tổ thức nắm bắt thông tin, theo dõi tình hình, dự báo và đề xuất kịp thời giải quyết các khó khăn của doanh nghiêp trong quá trình triển khai dự án cũng như hoạt động doanh nghiệp. Định kỳ tổ chức các cuộc đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp về thuế, hải quan, đất đai, xây dựng… Thành lập đường dây nóng để giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp trong thời gian nhanh nhất.

Trung Dũng