Những kết quả đạt được của ngành Công nghiệp Lào Cai trong giai đoạn 2006 - 2010 đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII. Với tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 27,6%/năm; Năm 2010, giá trị tăng thêm đạt 710 tỷ đồng; Nộp ngân sách nhà nước 296 tỷ đồng, chiếm gần 30% tổng thu nội địa trên địa bàn; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong GDP của tỉnh tăng từ 25,6% (năm 2005) lên 35,5% (năm 2010); Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch đúng hướng, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2015: Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 5.200 tỷ đồng (giá CĐ 1994), tăng 2,4 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011 - 2015 đạt bình quân trên 18,65%/năm; Giá trị tăng thêm 1.700 tỷ đồng, tăng 2,39 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011 - 2015 đạt bình quân 19,2%/năm; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm trên 41% trong GDP của tỉnh, tăng 5,5% so với năm 2010; Nộp ngân sách khoảng 700 tỷ đồng, tăng 2,36 lần so với thực hiện 2010; Tạo việc làm mới cho trên 10.000 lao động, tăng 10% so với giai đoạn trước.
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, ngay từ đầu nhiệm kỳ năm 2011 tỉnh đã tập trung nghiên cứu, dự báo tình hình cả chủ quan và khách quan, phân tích đánh giá để đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đồng thời tập trung nguồn lực và sự lãnh đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ. Trước mắt triển khai xây dựng Đề án trọng tâm “Phát triển công nghiệp - khu, cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011- 2015”.

Phát huy tốt lợi thế về tiềm năng tài nguyên khoáng sản của Lào Cai trong đó có một số khoáng sản quan trọng, quy mô mỏ lớn, chất lượng cao, dễ khai thác như Apatit, đồng, sắt. Do vậy trong những năm tới, phát triển ngành khai thác chế biến khoáng sản làm ngành công nghiệp nền tảng của tỉnh. Từ ngành này sẽ làm cơ sở cho phát triển một số ngành sản xuất khác như: luyện kim, phân bón, hóa chất…
Phát triển mạnh ngành công nghiệp sản xuất phân bón, hóa chất trên cơ sở sử dụng các nguồn nguyên liệu khoáng khai thác tại địa phương (Apatit, secpectin, quăczit, đá vôi…) phấn đấu đến 2015 sẽ cho ra các sản phẩm quan trọng như phân bón DAP 330.000 tấn/năm; supe lân 200.000 tấn/năm; phân lân nung chảy 200.000 tấn/năm; phốt pho vàng; phụ gia thức ăn gia súc (DCP); Axit Sunfuaric và các sản phẩm khác như NPK, Axit phốt pho ric, muối phốt phát…
Ngành luyện kim tập trung vào 2 lĩnh vực: luyện kim màu và luyện kim đen với việc sử dụng 2 nguồn nguyên liệu chủ yếu đó là quặng sắt và quặng đồng. Đối với luyện kim đen: Sử dụng nguồn quặng sắt khai thác tại các mỏ sắt như: Quý Sa, Làng Lếch-Ba Hòn, Làng Vinh - Làng Cọ…tập trung đẩy nhanh tiến độ 2 dự án gang thép đang triển khai: Nhà máy gang thép Tằng Lỏng giai đoạn 1 đến năm 2013 đạt công suất 500.000 tấn/năm, giai đoạn 2 đến 2015 đạt 1 triệu tấn/năm và Nhà máy gang thép Bản Qua- Bát Xát công suất 220.000 tấn/năm dự kiến hòan thành vào cuối 2013.
Đối với luyện đồng: Đây là lĩnh vực mà Lào Cai có nhiều lợi thế với 2 mỏ đồng lớn nhất nước (Sin Quyền và Tả Phởi) với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn đồng kim loại. Mặt khác lại có nhà máy luyện đồng đầu tiên của Việt Nam xây dựng tại Lào Cai công suất 10.000 tấn/năm đã hoạt động từ năm 2008. Trong giai đoạn 2011 - 2015 sẽ mở rộng nâng công suất nhà máy luyện đồng Tằng Loỏng lên 30-40 ngàn tấn/năm; nhà máy luyện đồng Bản Lầu công suất 10.000 tấn/năm. Khi đạt công suất luyện đồng 40.000 tấn/năm sẽ thu hồi được các sản phẩm đi kèm cũng rất quan trọng như: Vàng trên 1.000kg/năm, bạc 500 kg/năm, axit sunfuaric 160.000 tấn/năm (Nguyên liệu phục vụ cho sản xuất phân bón giàu lân).
Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản gắn với các vùng nguyên liệu tại các địa phương trong tỉnh nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng từng vùng, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực: Chế biến chè: Đầu tư 2 dự án chế biến chè chất lượng cao tại Phong Hải- Bảo Thắng và Thanh Bình- Mường Khương gắn với 2 vùng nguyên liệu lớn của tỉnh. Chế biến thuốc lá: Tiếp tục phát triển các cơ sở sấy lá thuốc lá đáp ứng cho trên 2000 ha cây thuốc lá đã quy hoạch trồng tại Mường Khương, Si Ma Cai, Bắc Hà, Bát Xát. Đồng thời nghiên cứu đầu tư 1 nhà máy chế biến thuốc lá sử dụng nguyên liệu tại chỗ và từ nơi khác. Chế biến lâm sản: Tích cực đôn đốc sớm đưa Nhà máy gỗ xuất khẩu Bảo Thắng vào hoạt động trong năm 2011; đẩy nhanh tiến độ đầu tư nhà máy Bột giấy Bảo Yên đang xây dựng. Trên cơ sở vùng nguyên liệu sẽ tiếp tục đầu tư Nhà máy sản xuất gỗ và bột giấy Văn Bàn, Bát Xát…
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: tập trung vào các lĩnh vực sản xuất xi măng, gạch, đá các loại. Theo đó đẩy nhanh tiến độ xây dựng Nhà máy xi măng 450.000 tấn/năm tại Phong Hải; phát triển thêm các dự án sản xuất gạch Tuynel và gạch không nung để đáp ứng nhu cầu gạch xây dựng trên địa bàn khoảng 160.000 - 180.000 triệu viên/năm. Tổ chức khai thác đá, cát với quy mô lớn phục vụ cho xây dựng đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội và nhu cầu xây dựng trên địa bàn tỉnh.
Công nghiệp điện: Trong những năm tới nhu cầu về điện trên địa bàn tỉnh sẽ tăng cao trong đó có nhiều công trình công nghiệp lớn ra đời. Để đáp ứng nhu cầu điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất cần tiếp tục đầu tư phát triển lưới điện đồng thời với phát triển các công trình thủy điện của tỉnh để chủ động về điện trên địa bàn.
Bên cạnh đó Lào Cai sẽ quan tâm chú trọng phát triển các ngành Công nghiệp phụ trợ như: Công nghiệp cơ khí sửa chữa cung cấp dịch vụ sửa chữa máy, thiết bị, các phương tiện vận tải...gắn với các đô thị và khu vực sản xuất công nghiệp tập trung; Đẩy mạnh sản xuất phụ kiện và chế biến nguyên liệu phụ gia, trợ dung như quắczit, đôlômit, đá vôi, thuốc tuyển thủy tinh lỏng, thùng phuy kim loại đựng phốt pho, sản xuất bao bì PP, vỏ bao xi măng...phục vụ cho các ngành luyện kim, hóa chất, tuyển khoáng,...
Ngoài những ngành công nghiệp lớn nêu trên, phát triển TTCN cũng được quan tâm đúng mức. Trong thời gian tới cần đồng thời thực hiện tốt chính sách khuyến công gắn với việc huy động nguồn lực trong dân và kêu gọi các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển TTCN; chú trọng nâng cao sản lượng, chất lượng các sản phẩm truyền thống như thổ cẩm, rượu đặc sản, đồ mỹ nghệ và các sản phẩm chế biến từ nông lâm sản,… phục vụ nhu cầu trong tỉnh và vươn ra thị trường trong và ngoài nước.
Quy hoạch, xây dựng các khu, cụm công nghiệp đáp ứng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển công nghiệp - TTCN: Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp hiện có (Đông Phố Mới, Bắc Duyên Hải, Tằng Loỏng); Hoàn thiện hồ sơ thành lập 2-3 khu công nghiệp tại các khu vực Tân An -Tân Thượng (Văn Bàn), phía Tây thành phố Lào Cai, khu vực Bát Xát và dọc tuyến cao tốc Lào Cai-Hà Nội. Đầu tư xây dựng hạ tầng chủ yếu (đền bù GPMB, trục giao thông, cấp điện, nước...) cho 10 cụm công nghiệp để ít nhất mỗi huyện, thành phố có một cụm đi vào hoạt động. Phấn đấu đến năm 2015 các khu, cụm công nghiệp mới thành lập có tỷ lệ lấp đầy đạt trên 80%.
Thời gian tới tỉnh tếp tục đẩy mạnh và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào địa bàn tỉnh, ưu tiên các dự án hiệu quả, công nghệ cao, các dự án chế biến sâu khoáng sản, chế biến nông, lâm sản của địa phương, các dự án sử dụng nhiều lao động, đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp,... Trong đó chú ý đến cơ chế chính sách về tài chính, tín dụng, ngân hàng và các giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, ngoài sự chủ động của các doanh nghiệp cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước trong việc xây dựng thương hiệu, củng cố và mở rộng thị trường; đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường; tìm kiếm thông tin, thị trường. Tăng cường đầu tư để đào tạo đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao và công nhân lành nghề, đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho các dự án công nghiệp trên địa bàn.
Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Nguyễn Văn Vịnh
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI