VĨNH LONG

Xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp lớn gắn với phát triển chuỗi giá trị

08:28:34 | 30/12/2024

Sau 04 năm triển khai quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn với phát triển chuỗi giá trị nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025 và định hướng đến năm 2030, Bến Tre đã đạt nhiều kết quả đáng kể.


Lễ công bố xã Tiến Lợi, huyện Châu Thành đạt chuẩn nông thôn mới

Cụ thể về xây dựng vùng sản xuất tập trung, tỉnh đã xây dựng thành công vùng Dừa hữu cơ đạt 21.000ha; cây ăn trái đặc sản đạt 1.630ha; cây giống - hoa kiểng đạt 420ha; diện tích nuôi tôm công nghệ cao đạt 4.000ha. Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông, lâm, thủy sản chủ lực, sản xuất theo các quy trình sản xuất tốt (GAP) và tương đương đạt 24% được thực hiện liên kết đạt 30%. Giá trị sản xuất của một số chuỗi nông sản ngày càng tăng cao như: Chuỗi dừa đạt 0,838 tỷ USD; chuỗi tôm đạt 01 tỷ USD; chuỗi bò đạt 500 triệu USD; chuỗi cây giống - hoa kiểng đạt 400 triệu USD,… Đã tăng thêm 43 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị, có 19 HTX đạt doanh thu trên 10 tỷ đồng. Nhờ vậy, giá trị canh tác cũng chuyển biến tích cực: Trồng trọt đạt 180 triệu đồng/ha; thủy sản đạt 509 triệu đồng/ha; trong đó, tôm nước lợ thâm canh, bán thâm canh ước đạt 1.300 triệu đồng/ha); cây giống ước đạt 1 tỷ đồng/ha.

Ông Đoàn Văn Đảnh - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh cho biết: Có được kết quả trên là nhờ Bến Tre đã tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức về xây dựng vùng sản xuất tập trung gắn với phát triển chuỗi giá trị.

Bên cạnh đó, rà soát quy hoạch; hoàn thiện cơ chế, chính sách về tổ chức lại dân cư và xây dựng vùng nguyên liệu tập trung. Cụ thể đã quy hoạch lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện tích hợp vào Quy hoạch tỉnh, gồm 04 hợp phần; đồng thời chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương rà soát, xây dựng 07 kế hoạch về vùng sản xuất tập trung đối với các đối tượng chủ lực, 01 kế hoạch về xây dựng mô hình thí điểm và 01 kế hoạch về hỗ trợ phát triển mã số vùng trồng, chỉ dẫn địa lý đảm bảo truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm làm cơ sở cho các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện.

Tỉnh cũng đã ban hành Đề án xây dựng điểm dân cư tập trung phục vụ bố trí lại dân cư vùng thiên tai, ven sông, ven biển, kênh rạch, lâm trường gắn với tổ chức sản xuất và xây dựng nông thôn mới. Bến Tre đã tích cực rà soát và tham mưu ban hành các chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn như: Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; chính sách đặc thù khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp; chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn; chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác. Giai đoạn 2021 – tháng 9/2024, đã hỗ trợ cho 94 HTX, với 227 hồ sơ theo Nghị quyết số 02/2021/NQ-HĐND và Nghị quyết số 25/2021/NQ-HĐND với số tiền giải ngân đạt 9.203 triệu đồng.

Những năm qua, Bến Tre còn đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất: Hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu tập thể cho 16 HTX nông nghiệp; xây dựng, quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý “Bến Tre” và tạo lập quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu chứng nhận mang chỉ dẫn địa lý “Bến Tre”, “Cái Mơn” cho các sản phẩm nông nghiệp. Đến nay, có hơn 60 đơn đăng ký nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể, có 52 văn bằng bảo hộ: 09 chỉ dẫn địa lý “Bến Tre”, 10 nhãn hiệu chứng nhận, 33 nhãn hiệu tập thể.

Một điểm nhấn nữa là tỉnh đã xây dựng Phương án quy hoạch Khu đô thị nông nghiệp thông minh - công nghiệp sạch và dịch vụ du lịch tổng hợp trên địa bàn thành phố Bến Tre và huyện Châu Thành, diện tích 5.300ha. Hiện nội dung của Phương án quy hoạch Khu đô thị nông nghiệp thông minh - công nghiệp sạch và dịch vụ du lịch tổng hợp trên địa bàn thành phố Bến Tre và huyện Châu Thành đã được lồng ghép, tích hợp vào đồ án quy hoạch quy hoạch tỉnh, quy hoạch xây dựng vùng huyện Châu Thành.

Ngoài ra, tỉnh đã xây dựng hoàn chỉnh chuỗi giá trị nông sản chủ lực gắn với chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng: Hiện toàn tỉnh có 88 tổ hợp tác (THT), 78 HTX, 04 tổ liên kết tham gia vào chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp chủ lực. Cụ thể: Chuỗi dừa: Có 32 THT, 34 HTX tham gia vùng sản xuất gắn với chuỗi giá trị dừa với tổng diện tích đạt 10.094,55ha và 7.048 thành viên. Chuỗi bưởi da xanh: Có 18 HTX, 07 THT và 04 tổ liên kết sản xuất bưởi da xanh hình thành 31 liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm với tổng diện tích vùng sản xuất tập trung đạt 666,23ha, tổng sản lượng tiêu thụ khoảng 8.000 tấn/năm. Đã cấp 34 vùng trồng xuất khẩu bưởi da xanh (98 mã) tại Châu Thành, Giồng Trôm và Mỏ Cày Bắc với diện tích 456,82ha; chuỗi heo duy trì hoạt động của 02 THT, 02 HTX, 134 hộ tham gia với khoảng 10.028 con; hình thành 4 liên kết đầu vào - đầu ra. Số lượng heo xuất chuồng bình quân ước khoảng 55.000 - 60.000 con/năm.

Ông Đoàn Văn Đảnh cho biết thêm: Nền nông nghiệp của tỉnh đang phát triển theo hướng tập trung vào sản xuất hàng hoá chất lượng, năng suất cao và tăng cường khả năng cạnh tranh. Đã có sự hình thành của các vùng sản xuất liên kết với chuỗi giá trị của các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, cung cấp nguồn nguyên liệu ổn định cho ngành chế biến. Kinh tế nông thôn đang chuyển dịch sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ cũng như đa dạng hóa ngành nghề, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế tỉnh.

Thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Nông nghiệp

Cho đến nay, 100% hoạt động chỉ đạo, điều hành và quản trị nội bộ của ngành được thực hiện trên môi trường mạng.  100% Ban Chỉ đạo và tổ giúp việc chuyển đổi số (CĐS) được tập huấn, bồi dưỡng, phổ cập kỹ năng số thông qua hình thức đào tạo bồi dưỡng trực tiếp do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục đăng ký cho 334 công chức, viên chức, tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn trực tuyến về CĐS để đạt được 100% kỹ năng cơ bản về CĐS.


Xã nông thôn mới Thành Triệu với diện mạo ngày càng khởi sắc

Hoạt động dịch vụ công được nâng cao hiệu quả, hiệu lực: 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau. Các dịch vụ công trực tuyến toàn trình được thực hiện trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) tỉnh và Cổng Dịch vụ công quốc gia, do đó, người dân, doanh nghiệp có thể truy cập và nộp hồ sơ trực tuyến trên thiết bị di động. Năm 2024, tổng số hồ sơ TTHC đã tiếp nhận (cả trực tiếp và trực tuyến) đối với dịch vụ công trực tuyến toàn tỉnh và dịch vụ công trực tuyến một phần: 9.542 hồ sơ.

Về phát triển kinh tế số, ngành tiếp tục phối hợp triển khai Chương trình hỗ trợ các hộ sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể CĐS, doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh nông sản trên sàn thương mại điện tử.

Phát triển xã hội số được đẩy mạnh thông qua nhiều hình thức như: Các cuộc họp cơ quan, văn bản điều hành VNPT-Ioffice tuyên truyền, phổ biến, vận động, khuyến khích công đoàn viên sử dụng các hình thức thanh toán tiện lợi, hiện đại khi mua sắm, giao dịch. Tổ chức vận hành Fanpage “Nông nghiệp Bến Tre” để tuyên truyền rộng rãi, đa dạng hơn về công tác CĐS trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó đã xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về CĐS trên Website Sở. Xây dựng và phát triển kênh Youtube để tuyên truyền hoạt động khuyến nông; đồng thời xây dựng và vận hành kênh thông tin, thương mại điện tử cung cấp thông tin, cơ sở sản xuất, kinh doanh uy tín, hỗ trợ cung cấp đầu ra cho sản phẩm cây giống, hoa kiểng của tỉnh.

Nỗ lực xây dựng nông thôn mới

Qua gần 04 năm triển khai thực hiện, Chương trình số 09-CTr/TU ngày 29/01/2021 về xây dựng nông thôn mới (NTM) tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030 đã đạt được nhiều kết quả tích cực.


Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Bến Tre đã đạt được nhiều kết quả tích cực

Đến cuối năm 2024, huyện Chợ Lách đã đạt cơ bản 09/09 tiêu chí huyện NTM nâng cao (bao gồm nâng chất các xã NTM, xã NTM nâng cao và nâng chất huyện NTM) và hoàn thành hồ sơ đề nghị xét, công nhận huyện NTM vào năm 2025. Thành phố Bến Tre hiện có 05/06 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 02 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Dự kiến đến cuối năm 2024, có 100% xã đạt chuẩn NTM nâng cao.

Tỉnh cũng đặt mục tiêu 04 huyện đạt chuẩn NTM gồm: Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú, Châu Thành và phấn đấu thêm huyện Bình Đại. Kết quả đến cuối năm 2024, huyện Mỏ Cày Nam đạt chuẩn NTM. Các huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú, Châu Thành và Bình Đại cơ bản đạt tiêu chí huyện NTM và hoàn thành hồ sơ cấp huyện đề nghị xét, công nhận huyện đạt chuẩn NTM, đầu năm 2025 hoàn thành hồ sơ cấp tỉnh trình Trung ương xét, công nhận. Dự kiến trong năm 2025, các huyện này được công nhận đạt chuẩn NTM.

Tỉnh cũng đặt mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 80% xã đạt chuẩn NTM, các xã còn lại đạt từ 15 tiêu chí trở lên. Lũy kế đến tháng 8 năm 2024, tổng số xã đạt chuẩn NTM của tỉnh là 112 xã, đạt 80,6% so với mục tiêu đến năm 2025, 10 xã đạt 15 - 18 tiêu chí, 17 xã đạt 10 - 14 tiêu chí và không còn xã đạt dưới 10 tiêu chí. Ước thực hiện đến năm 2025, tổng số xã đạt chuẩn NTM là 124 xã (tăng 12 xã so với mục tiêu đến năm 2025), đạt 89,2% số xã xây dựng NTM, đạt 110,7% so với mục tiêu đến năm 2025.

Về mục tiêu số xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu: Đến tháng 8/2024, tỉnh đã công nhận 15 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu, đạt 166,7% so với mục tiêu. Dự kiến đến năm 2025, tỉnh có 17 xã NTM kiểu mẫu, đạt 188,9% so với mục tiêu. Từ năm 2021 đến năm 2025, tỉnh đã công nhận 17 xã đạt chuẩn NTM nâng cao.

Với mục tiêu đặt ra giai đoạn 2020 - 2025 tại Chương trình số 09-CTr/TU, các ngành, các cấp trong tỉnh đã và đang tập trung thực hiện hoàn thành mục tiêu đề ra, phấn đấu về đích các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre 5 năm 2021 - 2025. 

Trần Trang  (Vietnam Business Forum)