Là một trong những tỉnh trọng điểm về nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Kiên Giang tích cực thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại ngành Nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới có hiệu quả. Đặc biệt, tỉnh đã hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao gắn với liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị,... Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của ngành trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Cánh đồng lớn được ngành Nông nghiệp hướng dẫn sản xuất đạt chuẩn SRP và cấp mã số vùng trồng tại HTX kênh 7B huyện Tân Hiệp
Những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá phân bón, vật tư tăng mạnh,… nhưng ngành Nông nghiệp Kiên Giang vẫn đạt tốc độ tăng trưởng ổn định. Năm 2023, tổng diện tích lúa gieo trồng là 712.856ha/700.000ha, đạt 101,84% kế hoạch; khi thu hoạch dứt điểm sản lượng ước đạt 4.555.929 tấn/4,4 triệu tấn, vượt 3,54% kế hoạch và tăng 3,42% so với năm 2022; lúa chất lượng cao chiếm 97,10% diện tích gieo trồng, vượt 7,10% kế hoạch. Toàn tỉnh tổ chức sản xuất cánh đồng lớn được 1.334 cánh đồng (tăng 641 cánh đồng so năm 2022) với diện tích 167.225,69ha (tăng 57.893,69ha so với năm 2022). Trong đó, có 1.026 cánh đồng lớn gắn với liên kết tiêu thụ (tăng 524 cánh đồng so với năm 2022).
Cùng với cây lúa, các nhóm cây trồng như rau - quả thực phẩm, cây ăn trái, … được duy trì ổn định và tăng nhẹ so với cùng kỳ như: Nhóm rau diện tích gieo trồng 14.607ha, tăng 0,74% so với kế hoạch và tăng 31,50% so với cùng kỳ, sản lượng ước đạt 302.280 tấn, tăng 0,21% so với kế hoạch và tăng 28,72% so với cùng kỳ; cây khóm: Diện tích 9.300ha, sản lượng ước đạt 120.000 tấn, tăng 9,09% so kế hoạch và tăng 33,03% so với cùng kỳ; cây chuối: Diện tích 3.750 ha, sản lượng ước đạt 77.438 tấn, tăng 47,37% so kế hoạch và tăng 1,66% so cùng kỳ,…
Đặc biệt, công tác hướng dẫn, đề xuất cấp mã số vùng trồng được quan tâm tuyên truyền rộng rãi trên địa bàn tỉnh nhằm minh bạch nguồn gốc sản phẩm, góp phần nâng cao giá trị và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã có 396 mã số vùng trồng, gồm 165 mã số xuất khẩu (được Cục Bảo vệ thực vật cấp từ năm 2022) và 231 mã số nội bộ, chờ cấp mã số xuất khẩu, với tổng diện tích 12.122,24ha cho 15 loại cây trồng các vùng trồng phục vụ xuất khẩu. Vùng trồng lúa được cấp 302 mã với tổng diện tích 6.043,8ha phục vụ xuất khẩu chủ yếu các thị trường như EU và Nhật Bản.
Ngoài ra, tỉnh cũng quan tâm, cân đối giữa khai thác và nuôi trồng thủy sản một cách hiệu quả, bền vững. Theo đó, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản năm 2023 ước đạt 798.319 tấn, bằng 95,04% kế hoạch và bằng 97,14% so cùng kỳ. Khai thác thủy sản ước đạt 437.199 tấn, bằng 91,08% kế hoạch, bằng 87,03% so cùng kỳ; nuôi trồng thủy sản ước đạt 361.120 tấn, tăng 0,31% so kế hoạch và tăng 13,03% so cùng kỳ. Riêng tôm nuôi nước lợ ước đạt 121.000 tấn, tăng 0,41% so kế hoạch và tăng 9,40% so cùng kỳ.
Với những kết quả đạt được, nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế thông qua việc bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, tạo sinh kế, việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nông thôn.
Trong thời gian tới, để khai thác tối đa tiềm năng, đưa nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, ngành Nông nghiệp Kiên Giang tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch ngành sau khi ban hành; tổ chức phối hợp triển khai các đề án, dự án và kế hoạch ngành Nông nghiệp, chú trọng các đề án khai thác dư địa và giá trị ngành như: Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao; Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ; Đề án phát triển chăn nuôi bền vững; Đề án nuôi biển, cơ cấu sắp xếp lại khai thác thủy sản; Đề án phát triển vùng nguyên liệu, trung tâm logistics,… Thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang tư duy phát triển “kinh tế nông nghiệp”, sản xuất theo cơ chế và nhu cầu thị trường, chú trọng về chất lượng và giá trị gia tăng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh và xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện tái cơ cấu, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu với nâng cao giá trị nông sản. Hỗ trợ phát triển sản xuất theo hướng liên kết chặt chẽ giữa hộ nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm giảm chi phí, tăng chất lượng, nâng cao hiệu quả. Khai thác và phát huy lợi thế, dư địa của từng địa phương. Tập trung phát triển các vùng chuyên canh chất lượng cao, quy mô lớn đạt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, gắn với chỉ dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc.
Đồng thời, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển các vùng nguyên liệu tập trung đảm bảo đủ, đạt chuẩn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Thu hút các doanh nghiệp lớn có đủ năng lực về vốn, khoa học công nghệ và thị trường để dẫn dắt chuỗi giá trị.
Xây dựng mô hình và hỗ trợ nông dân tham gia cách mạng công nghiệp 4.0, nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, chú trọng nông nghiệp thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, tham gia nền kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng sản xuất gắn với bảo vệ sản xuất; chú trọng xây dựng hệ thống logistics gắn kết vùng nguyên liệu nông - lâm - thủy sản của tỉnh và với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI